Friday, July 30, 2010

Hoa Kỳ vẫn xem Biển Đông thuộc về quyền lợi quốc gia


Chiều thứ Năm tại Washington, một số giới chức cao cấp của bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã giải trình về chuyến đi châu Á mới đây của Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton. Tham gia buổi giải trình có các nhà báo và các chuyên viên quan tâm. Lập trường của Hoa Kỳ về Biển Đông vẫn là trọng tâm của nhiều câu hỏi.
Huy Phương | Washington, DC Thứ Sáu, 30 tháng 7 2010
Buổi giải trình hôm thứ Năm do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế
Các lập trường của Hoa Kỳ tại hội nghị ASEAN mới đây
Trung Quốc chỉ trích tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ về Biển Ðông
Trung Quốc tập trận trong vùng biển Đông đang tranh chấp
Wall Street Journal: Mỹ cứng rắn trước thái độ bắt nạt của TQ
TS Cù Huy Hà Vũ: Ðồng hành quân sự với Hoa Kỳ là mệnh lệnh của thời đại
Trung Quốc tiến hành cuộc tập trận quy mô lớn ở Biển Ðông
Mở đầu buổi giải trình, ông Vali Nasr, Cố vấn của ông Richard Holbrooke, Đại sứ tại Pakistan và Afghanistan, cho biết về chuyến đi dự hội nghị Kabul của bà Clinton:


“Chuyến đi một ngày do chính phủ Afghanistan tổ chức nhằm quy tụ sự chú ý của quốc tế đối với vấn đề an ninh và quản lý công quyền của chính phủ Afghanistan. Hội nghị diễn ra tốt đẹp và bà Ngoại trưởng cũng nhân dịp này có những cuộc gặp gỡ song phương với Ngoại trưởng của Ấn Độ và Anh.”
Bà Mary Beth Goodman, một cố vấn khác của Đại sứ Holbrooke cho biết về chuyến đi tại Pakistan:
“Đây là cuộc họp cấp cao và là kết quả của một công trình làm việc đến từ 13 nhóm công tác khác nhau; bao gồm các lĩnh vực nông nghiệp, quốc phòng, năng lượng, y tế, khoa học công nghệ, phụ nữ, nước uống. Ngoài ra, Ngoại trưởng Hoa Kỳ đã chứng kiến lễ ký kết hiệp định thương mại quan trọng giữa Afghanistan và Pakistan, một hiệp định đã được đàm phán từ mấy chục năm qua.”
Về chuyến đi tại Nam Triều Tiên, ông Derek Chollet, Phó Trưởng Ban Kế hoạch của Ngoại trưởng Hoa Kỳ cho biết Ngoại trưởng Clinton đã có những cuộc họp chiến lược tại Seoul:
“Tại đây bà đã được sự tiếp tay của Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates, Đô đốc Mike Mullen, Chủ tịch Ủy ban Tham mưu Liên quân, và Thứ trưởng Ngoại giao William Burns.”
Với một thành phần hùng hậu như vậy Hoa Kỳ muốn chứng tỏ coi trọng vấn đề an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của Nam Triều Tiên như thế nào. Đặc biệt, bà là Ngoại trưởng Hoa Kỳ đầu tiên đến tận vùng phi quân sự giữa hai miền Nam Bắc để cho thấy quyết tâm của Hoa Kỳ muốn có quan hệ mạnh mẽ với Nam Triều Tiên, nhất là sau sự kiện của tàu Cheonan bị chìm. Một sự kiện đặc biệt khác là bà Clinton loan báo thêm các biện pháp trừng phạt mới với Bắc Triều Tiên và trong những ngày tới đây, một giới chức của Hoa Kỳ sẽ đến Nam Triều Tiên để bàn thêm với các giới chức Nam Triều Tiên về vấn đề này.
Trả lời câu hỏi liệu các biện pháp trừng phạt thêm đối với Bắc Triều Tiên mà bà Clinton loan báo có phải là Hoa Kỳ bây giờ coi nhẹ cuộc đàm phán 6 bên và sẽ có hành động đơn phương với Bắc Triều Tiên hay không, ông Chollet cho biết:
“Chúng ta cần đặt lời loan báo này trong bối cảnh một chiến lược rộng lớn hơn. Về cơ bản có ba phần. Thứ nhất, Hoa Kỳ muốn tiếp tục giao tiếp với các đồng minh để giải quyết vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên; thứ hai, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Nam Triều Tiên luôn luôn vững mạnh, Hoa Kỳ ủng hộ sư an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của Nam Triều Tiên; và thứ ba, Hoa Kỳ sẽ dùng mọi công cụ có thể để gây áp lực lên Bắc Triều Tiên.”


Huy Phương
Ông Derek Chollet, Phó Trưởng Ban Kế hoạch của Ngoại trưởng Hoa Kỳ
Về chuyến đi Hà Nội, ông Chollet cho biết:

“Tại đây, về mặt song phương, bà kỷ niệm 15 năm bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Trong khi gặp Thủ tướng và Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam bà nhấn mạnh kể từ nay hai nước sẽ cố gắng tìm cách nâng quan hệ lên một tầm mới. Ngoài ra bà cũng nêu quan tâm của Hoa Kỳ về tự do chính trị và nhân quyền.”
Và phần kế tiếp trong chương trình của bà Clinton tại Hà Nội là hội nghị ASEAN như đã được báo chí quốc tế nói tới.
Trong hội nghị này Hoa Kỳ muốn chứng tỏ chính phủ Obama coi trọng vai trò của ASEAN tại châu Á Thái Bình Dương và mong có sự giải quyết các tranh chấp trên cơ sở đa phương. Bà loan báo Hoa Kỳ sẽ mở một phái bộ thường trực với ASEAN tại Jakarta, Tổng thống Obama sẽ tổ chức hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ nhì trong vài tháng sắp tới, riêng cá nhân bà sẽ trở lại Hà Nội vào mùa Thu để dự hội nghị thượng đỉnh Đông Á.
Về lập trường của Hoa Kỳ tại Biển Đông, ông Chollet nhắc lại bà Ngoại trưởng Clinton đã đưa ra một “chính sách được định nghĩa nhiều hơn”, cơ bản là Hoa Kỳ xem là quyền lợi quốc gia khi thấy khu vực tiếp tục có hòa bình và ổn định, tự do giao thông trên biển và tôn trọng luật pháp quốc tế. Trong tinh thần đó, Hoa Kỳ ủng hộ những giải pháp ngoại giao tập thể do các phe tranh chấp đưa ra, mà không dẫn đến va chạm.
Một câu hỏi khác được đặt ra là Trung Quốc đã tiếp tay Hoa Kỳ để giúp đỡ Afghanistan và Pakistan. Vậy thì lập trường mới của Hoa Kỳ tại Biển Đông có làm Trung Quốc bực tức đến độ gây khó khăn cho Hoa Kỳ tại Afghanistan và Pakistan hay không?
Ông Chollet trả lời là trong nhiều lần họp, các giới chức cao cấp của Hoa Kỳ như Ngoại trưởng Clinton, Đặc sứ Holbrooke vẫn trao đổi với các giới chức của Trung Quốc để làm thế nào hai bên có thể hợp tác tốt hơn trong vấn đề Afghanistan và Pakistan. Hoa Kỳ có nhiều lợi ích chung với Trung Quốc và đôi bên vẫn hợp tác để đạt các lợi ích chung đó.
Về tin tức nói rằng Trung Quốc cho là Hoa Kỳ đang làm tình hình Biển Đông thêm phức tạp, ông Chollet nói:
“Tôi cũng có đọc tin này qua báo chí nhưng tôi nghĩ rằng phản ứng đó của Trung Quốc cũng không làm Hoa Kỳ chuyển hướng với các nguyên tắc đã đề ra ở Hà Nội.”
Ông Nguyễn Ngọc Bích, một người tham dự buổi giải trình này cho biết:
“Thực sự thì không có nhiều chi tiết được tiết lộ so với những bài báo mà chúng ta đã được đọc về chuyện đó. Chỉ thấy là bây giờ có một sự chuyển hướng khá rõ ràng từ phía Hoa Kỳ qua những lời phát biểu của bà Clinton, qua hành động của Mỹ trên Hoàng Hải. Riêng buổi nói chuyện hôm nay thì không có gì mới mẻ lắm.”
Anh Phạm Văn Lẫm, một sinh viên đang thực tập tại Quốc hội Hoa Kỳ cho biết:
“Tôi nghĩ rằng đây là lần đầu tiên Hoa Kỳ đóng khung vào lập trường xem Biển Đông là lợi ích cốt lõi của mình. Đây nhất định là một sự thay đổi chính sách. Nhưng tiếc là các diễn giả đã không đi vào chi tiết về con đường kế tiếp mà Hoa Kỳ có là gì để thực hiện chính sách mới đó. Tôi thấy hơi buồn nhưng cũng vẫn quan tâm.”


E-mail In Ý kiến Ý kiến (11)
Thứ Sáu, 30 tháng 7 2010 Trung Hoàng (Việt Nam)
1. Lộ trình Biển Ðông giưả VN và Mỹ có rất nhiều điểm tương hợp, quyền lợi cuả hai nước không có sự đối kháng đáng ngại, so với sự tự tung tự tác cuả TQ hiện nay. Sự tự hành động coi Biển Ðông VN như sân sau cuả mình cuả TQ, Mỹ chắc chắn không thể an tâm về quyền lợi cuả mình ở đây. Giải quyết ở Afghanistan và Pakistan ổn thoả, rút quân tập trung cho mặt trận mới đã được thực hiện cho một hướng di chuyển tiếp khá tốt đẹp. Hướng chuyển biến rất cần thiết và nhiều triển vọng thành tựu.

Thứ Sáu, 30 tháng 7 2010 Trung Hoàng (Việt Nam)
2. Hành động cuả Hoa Kỳ ở BÐ đối với TQ là "tạo phức tạp", nhưng với các nước ASEAN là niềm hy vọng mới cho khu vực nầy. Một cơn gió mát mẻ thổi đến, giưả cái nắng rừng rực, dưới muà Hè bá quyền bành trướng, thè Lưỡi Bò mong liếm cả Biển Ðông. TQ sẽ phải có phản ứng với cái sốc bất ngờ, có thể sẽ mở đầu cuộc sóng gió ở BÐ, cho dù Tạng Hồi Mông lúc nào cũng là nổi lo trong đầu cuả Bắc Kinh, điểm tử huyệt lúc nào cũng cố che và bảo vệ.

Thứ Sáu, 30 tháng 7 2010 TRUONG TRUONG
Các phương tiện thông tin cũng như phát biểu của thái thú, đô úy... tàu cộng ra rả không chấp nhận đối thoại đa phương đích thị bộc lộ bản chất của bệnh bành trướng đại hán mãn tính ngàn đời rồi. Thế nhưng ta cộng chóp bu thì vẫn "thủ khẩu như hến" về chủ quyền của Tổ quốc. Vì thế có thơ rằng: “ Chủ quyền nào phải đồ chơi, Yêu nước nào phải đợi chờ xin cho. Tổ tiên Hồng Lạc tự do, Mà sao lệ thuộc ý đồ ngoại bang”.

Thứ Sáu, 30 tháng 7 2010 Trung Hoàng (Việt Nam)
3. Hành động cuả Mỹ trên Hoàng Hải là dọ dẫm từng bước thận trọng cần thiết, không nghiã là ở đó có sự nhân nhượng, nước đi tầm thường nhưng đối thủ sẽ phải suy nghĩ và khó cưỡng lại với bước kế tiếp. Kẻ bá quyền bành trướng phải được ngăn chận, toàn thế giới sẽ họp sức lại để thực hiện điều đó, sự đồng thuận là bức tường vô hình vững chắc nhất. Bức VLTT cổ xưa sẽ phải xụp đổ với thời gian, những vì cuả Thuỷ Hoàng sẽ trở về với bạo chuá cuả nó. Lòng người mới chính là ý trời.

Thứ Sáu, 30 tháng 7 2010 Vegas (USA)
Quét sạch tham nhũng là Mệnh Lệnh của Thời Đại cho VNCS và các dồng chí ĐNA.Mỹ có thể giúp nhưng không thể thi hành mệnh lệnh này được.

Thứ Sáu, 30 tháng 7 2010 Hoang lam (USA)
Day la mot co hoi co the la cuoi cung cho Dang CSVN lam gi cho dat nuoc va nhan dan. Neu khong ho la nhung pham nhan duoc ghi vao lich su. Hay cham dut chuyen tham nhung, mo rong dan chu da nguyen, xay dung y te va giao duc va ton trong va giup do nguoi dan khon kho dang bi canh song chet ngheo doi chang ai mang toi. Vu Vinashin la mot bang cao trang dai hinh cua dang CSVN.

Thứ Sáu, 30 tháng 7 2010 Việt Dân (US)
1) Nhận được sự ủng hộ của quốc tế chỉ là điều kiện ắt có nhưng không phải là đủ để có thễ giử được nền tự chủ,độc lập và tòan vẹn đất nước. Vì khi quyền lợi các nước siêu cường được dàn xếp và thõa mãn thì quyền lợi của tiểu quốc chỉ là bong bóng.

Thứ Sáu, 30 tháng 7 2010 Việt Dân (US)
2) Hãy theo gương tiền nhân lấy Dân làm gốc, lấy quốc gia làm trọng.Tôn trọng những giá trị tự do căn bản của toàn dân. Mạnh dạn nghiêm trị tham ô tham nhũng, loại bỏ cường quyền. Vì nếu không thì đây cũng là mặt trận mà Trung Hoa sẽ mở ra như "Áo vàng Áo đỏ" tại Thái Lan

Thứ Sáu, 30 tháng 7 2010 ABC (Canada)
Biển Đông từ xưa tới giờ vẫn là con đường tự do lưu thông trên biển, bây giờ tự nhiên bọn Trung Quốc lại muốn xí phần làm của mình, đây không phải đơn thuần đụng chạm đến các nước Đông Nam Á mà là tất cả các nước sử dụng con đường này (trong đó có Mỹ), vì vậy Mỹ xía vô chuyện này (và có thể là các nước khác nữa) cũng là chuyện tự nhiên, bọn Trung Quốc phải hiểu rõ điều này hơn ai hết, nhưng tại sao họ làm như vậy? Đó là do lòng tham đã làm mờ con mắt.

Thứ Sáu, 30 tháng 7 2010 Vegas (USA)
Thời buổi hội nhập,cái gì cũng toàn cầu.WWW mạng lưới tòan cầu. Global Economy kinh tế tòan cầu.Global secirity an ninh tòan cầu.Bao giờ có Global Coruption Network thì CSVN sẽ là leader của thế giới.

Thứ Sáu, 30 tháng 7 2010 Trần Hải (USA)
Nước Tầu hung hăng thái quá, được hướng dẫn bởi một đám tướng tá đeo huy chương ăn giỗ ( huy chương không phải do chiến trận) và một bọn trẻ hung hăng chưa thấy quan tài chưa đổ lệ. Quân đội Tầu chưa từng xung trận khá lâu, chỉ thao dượt bằng cách bắt nạt, áp chế dân và cứu lũ lụt, thiên tai nên không phải là đối thủ cuả quân đội tinh nhuệ Hoa Kỳ. Chiến tranh không ai mong mỏi. Nhưng thái độ kém văn minh cá lớn nuốt cá bé cuả Tầu cần phải bị trừng phạt.

Đài Loan cố tình khẳng định chủ quyền trên nhiều đảo của Việt Nam


Ngày 29/7, Trong bối cảnh Biển Đông đang ngày càng thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế, Bộ Ngoại giao Đài Loan (MOFA) đã cố tình tái khẳng định chủ quyền trên nhiều quần đảo tại Biển Đông thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam.
Bộ Ngoại giao Việt Nam luôn khẳng định “Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.”
Trên thực tế.
Ngày 29/11/1046 hạm đội của Trung Hoa Dân Quốc gồm bốn chiến hạm xuất phát từ cảng Ngô Tùng tới đảo Hoàng Sa và đổ bộ lên đây. Chính phủ Pháp chính thức phản đối sự chiếm đóng bất hợp pháp trên của Trung Hoa Dân Quốc và ngày 17-10-1947, thông báo hạm Tonkinois của Pháp được phái đến Hoàng Sa để yêu cầu quân Trung Hoa Dân Quốc rút nhưng họ không rút. Pháp gửi một phân đội lính trong đó có cả quân lính “quốc gia Việt Nam” đến đóng một đồn ở đảo Pattle (Hoàng Sa).
Ngày 14-10-1950, Chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho chính phủ Bảo Đại quyền quản lý các quần đảo Hoàng Sa. Thủ hiến Trung phần là Phan Văn Giáo đã chủ tọa việc chuyển giao quyền hành ở quần đảo Hoàng Sa.
Lợi dụng tình hình rối ren Nhật đầu hàng đồng minh, quân Tưởng Giới Thạch được giao phó giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc theo hiệp định Postdam đã lại chiếm giữ đảo Phú Lâm (Ile Boisée) cuối năm 1946 thuộc quần đảo Hoàng Sa và đảo Ba Bình (Itu Aba) thuộc quần đảo Trường Sa vào đầu năm 1947.
Đến năm 1950, khi quân Trung Hoa Dân Quốc đã rút khỏi Hoàng Sa và Trường Sa và hòa ước San Francisco buộc Nhật từ bỏ sự chiếm đóng hai quần đảo này, thì thủ tướng kiêm ngoại trưởng Trần Văn Hữu của chính phủ Bảo Đại đã tuyên bố rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam. Sau năm 1950, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không còn quân nước ngoài chiếm đóng ngoài lực lượng trú phòng Việt Nam của chính quyền Bảo Đại.
Hiệp định Genève ký kết năm 1954 chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất của nước Việt Nam. Điều 1 qui định đường ranh tạm thời về quân sự được ấn định bởi sông Bến Hải (ở vĩ tuyến 17). Đường ranh tạm thời này cũng được kéo dài ra trong hai phần bằng một đường thẳng từ bờ biển ra ngoài khơi theo điều 4 của hiệp định. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở biển Đông ở dưới vĩ tuyến 17 sẽ đặt dưới sự quản lý hành chính của phía chính quyền quản lý miền Nam.
Như thế, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được đặt dưới sự quản lý hành chính của chính quyền Việt Nam cộng hòa, lúc ấy hai quần đảo này chưa có sự chiếm đóng của bất cứ quân đội nước nào ngoài quân đội Pháp.
Ngày 1-6-1956, ngoại trưởng chính quyền Việt Nam cộng hòa Vũ Văn Mẫu ra tuyên bố tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 22-8-1956, lực lượng hải quân của chính quyền Việt Nam cộng hòa đã đổ bộ lên các hòn đảo chính của nhóm Trường Sa, dựng một cột đá và trương cờ. Tháng 10-1956, hải quân Đài Loan đến chiếm đảo Ba Bình (Itu Aba). Cũng năm 1956, Trung Quốc chiếm đảo Phú Lâm, đảo lớn nhất trong quần đảo này.
Sau khi Hoàng Sa thất thủ vào tháng 1-1974, đầu tháng 2-1974, chính quyền Việt Nam cộng hòa quyết định tăng cường phòng thủ các đảo ở quần đảo Trường Sa, đưa lực lượng ra đóng ở năm đảo thuộc Trường Sa. Qua đại sứ ở Philippines, chính quyền Sài Gòn khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Ngày 1-2-1974, đoàn đại biểu của Việt Nam cộng hòa ra tuyên bố tại hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Luật biển Caracas khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo, tố cáo Bắc Kinh đánh chiếm Hoàng Sa.
Ngày 30-3-1974, đại biểu chính quyền Việt Nam cộng hòa khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Hội đồng kinh tài Viễn Đông họp tại Colombia.
Ngày 14-2-1975, Bộ Ngoại giao chính quyền Việt Nam cộng hòa công bố Sách trắng về Hoàng Sa và Trường Sa.
Trung Quốc đã chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam tháng 1/1974 rồi sau đó từ 1988 đến 1995 chiếm thêm một số đảo đá ngầm thuộc chủ quyền của Việt Nam. Hiện Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố chủ quyền biển theo đường “lưỡi bò” chiếm đến 80% diện tích Biển Ðông
Trên biển Đông, trong thời gian qua đã liên tiếp xảy ra các vụ đụng độ ác ý giữa tầu chiến Trung Quốc với tầu thuyền của các quốc gia. Và điển hình là vụ đụng độ với tàu hải quân Mỹ hồi tháng 3/2009.


Ngoại trưởng Mỹ H.Clinton phát biểu tại diễn đàn ASEAN-AF
Trong diễn biến có liên quan, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton, cho biết Mỹ không đứng ngoài mà sẽ tham dự vào việc giải quyết các vấn đề phức tạp ở biển Đông, nơi hiện đang có nhiều tranh chấp về chủ quyền lãnh hải biển đảo và là một khu vực có tầm quan trong chiến lược thế kỷ. Phát biểu tại diễn Đàn ASEAN – ARF ở Hà Nội, bà Clinton cho biết, Mỹ có những lợi ích quốc gia của mình trong việc giải quyết ổn thỏa các xung đột tại biển Đông.
Thành Long (Tổng hợp)

Thursday, July 29, 2010

Chỉ có sự thật mới giải phóng con người, giải phóng văn học và đất nước



(Tham luận của Trần Mạnh Hảo trong Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ XIII, soạn theo thư  “mời viết tham luận” của nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhờ nhà thơ Trần Đăng Khoa đọc giùm – cám ơn!)
“Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” (K.. Marx)
Kính thưa quý đồng nghiệp cầm bút,
Thưa quý vị quan khách và quý vị lãnh đạo,
Thói thường, con người sợ món gì nhất? Sợ ma quỷ ư? Không! Sợ vợ ư? Không! Sợ công an ư? Không! Sợ kẻ cầm quyền ư? Không! Sợ chết ư? Không!
Theo chúng tôi, con người trên mặt đất này sợ nhất sự thật! Vì vậy, ngạn ngữ Việt Nam từng nói: “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”. Người Trung Hoa từ thượng cổ đã nói: “Trung ngôn nghịch nhĩ”. Người Ba Tư cổ khuyên: “Nếu nói ra sự thật, anh sẽ chết”. Người Ai Cập xưa cảnh cáo: “Khi sự thật bị bỏ quên quá lâu, một hôm nó thức dậy thành ngày tận thế”. Ngạn ngữ Tây Tạng tiền Phật giáo khuyên: “Mày chỉ được phép nói ra sự thật, nếu mày làm vua”. Thổ dân Úc bảo: “Ai nhìn thẳng vào sự thật sẽ bị mù mắt”. Lịch sử nhân loại đã ghi nhận hàng triệu con người từng dám cả gan nói lên sự thật mà bị mất mạng, bị tù tội hay bị quản thúc tại gia.
Đã có bao nhiêu lý thuyết chính trị thề bồi giải phóng con người, bao nhiêu cuộc lật đổ, cuộc cách mạng tuyên thệ giải phóng con người, giúp con người hoàn toàn tự do, sau khi đã giết hàng triệu triệu sinh mạng. Rút cuộc, con người hình như vẫn chưa được hoàn toàn giải phóng, chưa hoàn toàn được tự do, con người vẫn còn sợ hãi vì bị sự dối trá thống trị? Một số đất nước, một số dân tộc trên hành tinh vẫn còn bị nhốt trong nhà ngục có tên là dối trá. Cần phải làm một cuộc cách mạng của sự thật mới mong giải thoát cho nhân dân khỏi ngục tù kia.
Chìa khóa cuối cùng giúp con người được giải phóng, được hoàn toàn tự do, chính là sự thật, một sự thật không còn bị giấu như loài mèo giấu của quý. Karl  Marx  đã tôn vinh sự thật lên tột cùng của nhận thức luận và phương pháp luận: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý”: không có sự thật đi kèm, mọi kết luận, mọi lý thuyết, mọi khế ước, mọi hội kín, mọi cuộc cách mạng đều chỉ là ngụy lý, ngụy tạo, là lừa bịp. Cố Tổng thống Ba Lan Lech Kaczyński (1949-2010) người vừa bị tử nạn trong vụ rơi máy bay trên đường bay đến rừng Katyn tham dự lễ kỷ niệm 22.440 người con ưu tú của dân tộc Ba Lan bị Hồng quân Liên Xô chôn sống hồi đầu chiến tranh thế giới thứ hai; trong bài diễn văn viết sẵn mà ông không còn cơ hội để đọc, có đoạn viết như sau: “Sự thật, kể cả sự thật đau đớn nhất luôn luôn giải phóng cho con người. Sự thật gắn kết. Sự thật mang lại sự công bằng. Sự thật chỉ ra con đường hòa hợp.”
Lấy ý tưởng từ câu cách ngôn kinh điển của K. Marx và lời trăn trối thiêng liêng thống thiết lớn lao của ngài cố Tổng thống Ba Lan trên, chúng tôi viết bản tham luận theo yêu cầu của Hội Nhà văn Việt Nam này.
Dostoyevsky, nhà văn vĩ đại nhất của chủ nghĩa hiện thực Nga và thế giới, từng tuyên ngôn rất hoa mỹ, rằng: “Cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới”. Chúng tôi thêm: “Sự thật sẽ cứu chuộc thế giới”. Sự thật sẽ cứu chuộc nền văn học của chúng ta, cứu chuộc Tổ quốc ta, nếu chúng ta cả gan một lần cùng nhau: “Gọi sự vật bằng tên của nó” theo cách ngôn của phương Tây.
Nếu Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam thử một lần hợp tác với đất nước, với dân tộc Việt Nam mở HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG CHỐNG GIẶC NÓI DỐI để tìm ra con đường cứu nguy dân tộc đang trên đà suy vong, thì công này của quý vị rất lớn. Ông cha chúng ta đã đánh thắng giặc Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh… để bảo tồn đất nước. Tất cả các thứ giặc trên cộng lại cũng không ghê gớm bằng giặc nói dối đang tàn phá Tổ quốc ta, giống nòi ta. Lần này, nếu nhân dân ta không vùng lên đáng tan BỌN GIẶC CÓ TÊN LÀ DỐI TRÁ, chắc chắn đất nước ta sẽ bị kẻ thù phương Bắc nuốt chửng, như mấy nghìn năm trước chúng đã nuốt chửng toàn bộ các dân tộc Bách Việt từng định cư lâu dài phía nam sông Dương Tử.
Chúng tôi viết bản tham luận này cũng để nhằm hưởng ứng cuộc hội thảo “Văn học nghệ thuật phản ánh hiện thực đất nước hôm nay” do Ban Tuyên giáo Trung ương vừa tổ chức tại Đà Lạt trong hai ngày 12-13/7/2010 với hơn hai trăm văn nghệ sĩ và các nhà lý luận phê bình hàng đầu Việt Nam tham dự. Cuộc hội thảo dũng cảm kêu gọi văn nghệ sĩ từ trên mây tỉnh giấc, quay về với hiện tình đất nước, do GS.TS. Phùng Hữu Phú (Ủy viên Trung ương Đảng, phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, chủ tịch Hội đồng Lý luận Phê bình Trung ương), chỉ đạo. Theo Đại từ điển tiếng Việt trang 803, từ “hiện thực” có nghĩa như sau: “Cái có thật, tồn tại trong thực tế” (Bộ Giáo dục & Đào tạo–Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam-NXB Văn hóa Thông tin xuất bản 1998). Như vậy, khái niệm “hiện thực” chính là sự thật đã và đang xảy ra trong thực tại trên đất nước ta. Cuộc hội thảo của Ban Tuyên giáo Trung ương vừa qua có thể được gọi bằng một cách khác: “Văn học nghệ thuật phản ánh sự thật của đất nước hôm nay”. Muốn phản ánh được sự thật của đất nước hôm nay, việc trước tiên của chúng ta là phải nhìn ra sự thật, gọi đúng tên sự vật, không phải sự thật tô hồng hay sự thật bôi đen, mà sự thật đúng như nó đang tồn tại khách quan quanh ta.
Lâu nay, vẫn nghe dân gian xì xào nửa hư nửa thực rằng: “Các thế lực thù địch (xin lỗi, tiên sư nó) nói cái gì hình như cũng đung sắc đúng, Ban Tuyên giáo Trung ương (xin lỗi) nói cái gì hình như cũng sờ ai sai…” thì quả là chưa chắc; bằng chứng là trong hoàn cảnh đất nước mà sự thật trốn biệt như hôm nay, thì việc Ban Tuyên giáo Trung ương kêu gọi nhà văn chúng ta hãy mở mắt, từ bỏ giấc nam kha vô tích sự quá dài để nhìn vào sự thật, nói lên sự thật đất nước, là một việc làm quá đúng.
Tất nhiên, sự thật mà Ban Tuyên giáo Trung ương kêu gọi nhà văn nhìn nhận được nhìn bằng mắt thường, chứ không phải sự thật bịt mắt bắt dê, hay sự thật được nhìn bằng mắt kẻ khác, nhìn bằng những thấu kính ảo, kính lồi, kính lõm, hay chiếc gương chiếu yêu, chiếu bóng… Thâm ý của Ban Tuyên giáo Trung ương hình như muốn chúng ta tìm lại phong trào “Nói thẳng, nói thật” thời kỳ Đổi mới năm 1986 -1987 do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh phát động?
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, trong cuộc gặp mặt văn nghệ sĩ năm 1987, đã làm gương nói thẳng nói thật, khi ông đặt vấn đề rốt ráo cho văn học nghệ thuật là nhà nghệ sĩ phải có tự do sáng tác; ông nói: “Cởi trói như thế nào, cởi trói nói ở đây trước hết là Đảng phải cởi trói cho các đồng chí… Tôi cho rằng khi những sợi dây ràng buộc được cắt đi, sẽ làm cho văn học nghệ thuật như con chim tung cánh bay lên trời xanh…”.
Rõ ràng, qua lời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Đảng đã thừa nhận từng trói văn nghệ sĩ và trí thức rất nhiều năm. Lần này, Ban Tuyên giáo Trung ương, thông qua cuộc hội thảo cấp nhà nước “Văn học nghệ thuật hướng vào sự thật của đất nước” đã khuyến khích kẻ hèn này là chúng tôi nói lên sự thật, toàn là những sự thật chết người, sự thật mà chính quyền cố tình giấu diếm vì món lợi của quyền lực, với sự ngụy biện chống lại lẽ phải, chống lại chân lý: “Nói ra sự thật lúc này không có lợi”. Chả lẽ vì cái lợi, vì miếng ăn mà chúng ta đành phải nói dối hết đời ông đến đời cha, hết đời con đến đời cháu hay sao? Vậy chừng nào nhà nước Việt Nam mới cho người dân chúng tôi công khai nói ra sự thật đây? Chúng tôi đành lấy lời dạy của K. Marx làm bùa hộ mệnh: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” để một lần cuối cùng nói ra sự thật của đất nước chúng ta, dẫu có bị bị làm phiền, thậm chí bị tù đầy cũng mặc. Một kẻ nói dối, một dân tộc nói dối “lộng giả thành chân”, là một kẻ, một dân tộc không có tự do, không có độc lập, không có dân chủ, không có chân lý và lẽ phải… Khi một kẻ, một dân tộc phải núp vào sự dối trá để tồn tại, kẻ đó, dân tộc đó là một kẻ yếu, một dân tộc yếu đang trên đường suy vong. Chỉ có kẻ mạnh, kẻ tự tin, kẻ có liêm sỉ, có đạo đức mới không sợ sự thật, dù là sự thật đau đớn nhất, khủng khiếp nhất mà thôi.
Được lời như cởi tấm lòng, chúng tôi xin kể ra SỰ THẬT ĐẤT NƯỚC qua mắt mình, cái mà nền văn học của chúng ta lâu nay lảng tránh, làm ngơ, mặc “quốc gia hưng vong”, “ thất phu” thay vì “ hữu trách” thì hầu như cánh “thất phu” nhà văn thảy đều “tắc trách”… Chúng tôi mong 700 tờ báo của lề phải, tức báo của Đảng và nhà nước, hãy hạ cố chỉ ra những sự thật mà chúng tôi gọi tên trong bài tham luận này đúng hay sai. Còn nếu quý vị dùng công an hay nhà tù để đối thoại với chúng tôi thì quý vị đã mặc nhiên thừa nhận chúng tôi nói đúng; chỉ vì đuối lý mà quý vị mới phải dùng hạ sách là làm phiền chúng tôi, đe dọa chúng tôi thì quý vị đã không chính danh quân tử, dùng nền chính trị bá đạo ứng xử với người dân, khi người dân dám nói lên sự thật để hi vọng trên đất nước đau thương và cam chịu này le lói một nền chính trị vương đạo, dựa vào sự thật, lương tri và lẽ phải. Trong hàng trăm sự thật nhãn tiền của đất nước, chúng tôi chỉ xin kể ra ba sự thật mà thôi.
SỰ THẬT MỘT
Chưa bao giờ số phận dân tộc ta, đất nước ta có nguy cơ tiêu vong như hôm nay: nước nhà đang bị giặc ngoại bang xâm lấn bằng cuộc chiến tranh ngọt ngào, chiến tranh ôm hôn thắm thiết và tặng hoa, tặng quà anh anh chú chú, bằng cách chiếm dần hai quần đảo chiến lược Hoàng Sa và Trường Sa, lấn chiếm dần dần biên giới đất liền và hải đảo, khiến nguồn lợi biển vô cùng tận của ta rồi sẽ mất hết, dân tộc ta không còn đường ra đại dương, coi như tiêu. Ngoại bang dùng chiêu bài “ý thức hệ” và “16 chữ vàng” làm dây trói vô hình, trói buộc Đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam phải nhân nhượng kẻ xâm lược hết điều này đến điều khác. Trên đất liền, ngoại bang dùng con bài khai thác bauxite, mua đất thời hạn 100 năm của 18 tỉnh lấy cớ trồng rừng, thực chất là công cuộc  chiếm đất di dân theo kiểu vết dầu loang, theo kiểu “nở hoa trong lòng địch”. Đến nỗi, khi giặc chiếm Hoàng Sa rồi đặt tên quận huyện cho quần đảo này, sinh viên thanh niên biểu tình chống giặc lại bị nhà nước Việt Nam bắt. Vậy, nhà nước chúng ta hiện nay đứng về phía ngoại bang xâm lược hay đứng về phía nhân dân ta? Cũng chưa bao giờ như hôm nay, thiên nhiên và môi trường sống trên nước ta lại bị phá hoại khủng khiếp như thế: rừng bị triệt phá gần hết, sông ngòi đồng ruộng cạn kiệt nguồn nước, lụt lội kinh hoàng, khí trời bị ô nhiễm tới mức cuối cùng, nước mặn xâm hại phá hủy các đồng bằng. Chỉ cần một trận mưa lớn là Hà Nội, Sài Gòn biến thành sông do quy hoạch xây dựng phản khoa học. Hạt lúa, củ khoai, mớ rau, tôm cá, thịt gia súc, gia cầm cũng đang bị các chất hóa học độc hại chứa trong thức ăn, các chất tăng trưởng, chất bảo quản độc hại ám sát, khiến sinh tồn của giống nòi có cơ biến dạng…
Đạo đức xã hội tha hóa tới mức cuối cùng, con người hầu như không còn biết tới liêm sỉ và lẽ phải… Một ông Chủ tịch tỉnh Nguyễn Trường Tô và rất nhiều quan chức cao cấp trong tỉnh Hà Giang chơi gái vị thành niên do ông hiệu trưởng trường trung học Sầm Đức Xương bắt các cháu nữ sinh là học sinh trong trường làm điếm, nhằm cống nạp cho các quan đầu tỉnh. Nghe nói ông Nguyễn Trường Tô, ông Sầm Đức Xương từng là những người nhiều năm liền được bằng khen vì thành tích học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh. Một sinh viên Nguyễn Đức Nghĩa từng là đoàn viên thanh niên cộng sản ưu tú, đã ra tay giết và cướp của chính người yêu cũ của mình một cách man rợ, không phải là cá biệt trong một xã hội con giết cha, vợ giết chồng, anh em giết nhau được đưa tin đầy tràn trên các trang báo lề phải. Lối sống vô đạo đức, hành vi vô luân, con người ứng xử với con người man rợ hơn dã thú đang là vấn nạn quốc gia, có thể đưa một dân tộc vốn có văn hóa, văn hiến bốn nghìn năm tới chỗ diệt vong… Không nhìn ra những nguy cơ chết người này, liệu 100 năm nữa Tổ quốc Việt Nam chúng ta còn tồn tại không? Dòng giống con Lạc cháu Hồng còn tồn tại không?
Nền giáo dục Việt Nam hôm nay là một nền giáo dục thiếu trung thực, đúng như ý kiến của ông Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã công nhận. Đạo đức trong giáo dục Việt Nam hôm nay đồng nghĩa với dối trá: thày dối trá thày, trò dối trá trò, quản lý giáo dục báo cáo láo cốt lấy thành tích, nạn mua bán bằng, bán đề thi, mua quan bán tước đang là đại họa của nền giáo dục. Hầu hết sách giáo trình, sách giáo khoa… là sách đạo văn. Cán bộ có chức có quyền đua nhau làm thạc sĩ, tiến sĩ… lấy bằng thật nhưng học giả. Nạn dùng tiền mua bằng cấp, mua học hàm học vị đang diễn ra công khai trong cái chợ trời giáo dục Việt Nam. Việc Hà Nội vừa qua đưa chỉ tiêu “xóa mù tiến sĩ” cho cán bộ công nhân viên nhà nước đã nói lên học vị tiến sĩ chẳng còn giá trị gì cả. Có lẽ trong vài năm tới, sau việc Bộ Giáo dục ra chỉ tiêu đào tạo thêm 23.000 tiến sĩ, sẽ dẫn tới chiến dịch xóa mù tiến sĩ trên phạm vi toàn dân. Nhiều ông cán bộ cấp cao có học vị tiến sĩ nhưng chưa có bằng tốt nghiệp đại học, thậm chí có vị chưa có bằng tốt nghiệp cấp 2 vẫn lấy được học vị tiến sĩ. Việc chính trị hóa môn văn, môn lịch sử, môn triết học, chính trị hóa nền giáo dục… đã tạo cơ sở cho sự dối trá làm bá chủ đất nước. Giáo dục như thế sao có thể đào tạo ra những công dân chân chính? Đây là dấu hiệu suy vong lớn nhất của dân tộc do nền giáo dục thiếu tính nhân văn, thiếu tính chân thật gây ra. Những quả bom B52 tinh thần là nền giáo dục đi chệch hướng chân thiện mỹ đang rải thảm lên tinh thần dân tộc, thì ai là người phải chịu trách nhiệm trước lịch sử đây?
Than ôi, sau những quả bom tinh thần có tên là giáo dục mà chế độ tự ném vào mình, chỉ cần ngoại bang ném bồi thêm mấy quả bom thật vào hai đập thủy điện Sơn La và Hòa Bình là đồng bằng Bắc Bộ và cả Hà Nội sẽ biến mất, dân tộc sẽ biến mất… Hai đập thủy điện khổng lồ trên nghe đâu lại nằm trên vết nứt động đất… mới hãi hùng làm sao? Đầu nguồn sông Hồng, đầu nguồn sông Mê Kông, Trung Quốc đã và đang xây hàng trăm đập thủy điện, khiến hai con sông chính của đất nước khô cạn dần, không còn đủ nguồn nước tưới cho hai đồng bằng chính nuôi sống dân tộc. Cách Móng Cái 60 km, tại Phòng Thành, Trung Quốc đang xây nhà máy điện hạt nhân rất lớn; nếu có sự cố kiểu Chernobyl vào mùa gió bấc, Hà Nội và dân đồng bằng Bắc Bộ có thể sẽ chết hết vì nhiễm phóng xạ hạt nhân…
SỰ THẬT HAI
Chưa bao giờ như hôm nay, trên đất nước ta, giặc nội xâm có tên là tham nhũng lại hoành hành ngang nhiên, kinh hãi như dịch hạch đến thế. Dân có tham nhũng không? Không! Thế thì ai là giặc nội xâm, là giặc tham nhũng? Thưa, chính quyền! Chỉ kẻ có chức có quyền mới tham nhũng được mà thôi. Vụ tham nhũng mới nhất như một đòn hiểm ác đánh một cú chí tử vào đất nước là tập đoàn Vinashin – một nấm đấm thép của chính phủ – đã cướp đi của nhân dân số tiền khổng lồ là 80.000 tỷ đồng. Cứ thử làm tròn dân số nước ta là 90 triệu người (thực ra dân số Việt Nam mới chỉ trên 85 triệu dân), vị chi mỗi người dân vừa bị tập đoàn quốc doanh Vinashin cướp đi gần 9.000.000 đ. Chín triệu đồng với người nông dân là một nguồn vốn lớn: một gia đình nông dân có bốn nhân khẩu chẳng hạn, đã vừa bị Vinashin cướp đi nhãn tiền 36.000.000 đ. Đã có bao nhiêu tập đoàn Vinashin cướp hết tiền của nhân dân trong quá khứ, trong hiện tại chưa bị phát hiện? Những nấm đấm thép của chính phủ như các tập đoàn kinh tế: tập đoàn Than, tập đoàn Điện, tập đoàn Khoáng sản… đã và đang đấm chí tử vào hầu bao dân nghèo Việt Nam. Theo kiểm toán nhà nước, năm 2008, các tập đoàn kinh tế – nắm đấp thép – đã làm thất thoát 10 tỷ đô la. Năm 2009, số thất thoát (đổ tội cho lỗ vốn) cũng không nhỏ hơn số 10 tỷ đô la năm trước. Các tập đoàn kinh tế quốc doanh, các công ty quốc doanh đang là đại họa cho quốc gia; chứng tỏ thành phần kinh tế rường cột của mô hình xã hội chủ nghĩa này đã hoàn toàn thất bại. Về quốc nạn tham nhũng, bà Phạm Chi Lan, chuyên viên kinh tế cao cấp của chính phủ đã phải cay đắng thừa nhận “bọn nắm đấm thép – chúng nó ăn hết tiền của dân rồi” như sau: “Một khi vẫn còn các ông lớn chủ đạo vẫn ngốn hết nguồn lực của đất nước và thâu tóm hết quyền thiết kế chính sách có lợi cho mình, thì làm sao thằng nhỏ động lực kinh tế tăng tốc được” (Tuần Việt Nam 22/07/2010).
Tại sao nhà nước ta hiện nay vốn có hai chính quyền cồng kềnh, chồng chéo nhau, giẫm đạp lên nhau: một chính quyền theo hệ Đảng và một chính quyền theo hệ nhà nước với hàng vạn ban thanh tra, hàng vạn chi bộ bốn năm sáu tốt, với hầu hết mấy triệu đảng viên gương mẫu đều đã học tập tốt đạo đức Bác Hồ, mà giặc tham nhũng lại ngang nhiên hoành hành trắng trợn từ vi mô đến vĩ mô đến như vậy? Quan tham nhìn từ xã trở lên không thấy lao động chân tay, không thấy lao động trí óc, chỉ sử dụng một thứ lao động có tên là LAO ĐỘNG LÃNH ĐẠO mà ai ai cũng giàu có hơn dân thường hàng trăm, hàng nghìn, hàng vạn, hàng triệu, hàng tỉ lần là sao? Chung quy lại, có phải là do thể chế sai, mô hình chính trị sai: VỪA ĐÁ BÓNG VỪA THỔI CÒI, VỪA ĐI THI, CHẤM GIẢI VỪA PHÁT GIẢI VỪA ĐƯỢC LÃNH GIẢI. NHÀ NƯỚC – ĐẢNG MỘT MÌNH MỘT CHỢ: VỪA THAM NHŨNG VỪA CHỐNG THAM NHŨNG? Xin hỏi: tay phải tham nhũng, liệu tay trái có dám cầm dao chặt được tay phải hay không?
Linh hồn triết học duy vật biện chứng Marxism nằm ở câu kinh mà đảng viên cộng sản nào cũng phải thuộc làu làu: “Mọi sự vật đều được cấu thành bởi các mặt đối lập thống nhất”. Chỉ trừ nền chính trị của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam không hề nằm trong quy luật vận động này của Marx, vì nó triệt tiêu đối lập chính trị!
Nền  chính trị độc đảng, độc quyền của nước ta hôm nay đang chống lại biện chứng pháp Marxism. Trong phép biện chứng do Hegel sáng tạo, Marx tiếp thu, có ba nhịp như sau: xuất đề, phản đề và tổng đề. Phản đề hay đối lập chính là linh hồn của biện chứng pháp Marxism. Chối bỏ đối lập, triệt để cấm phản đề, cấm đối lập chính trị, nền chính trị của nước ta ngày nay đang chống lại chính cái lý thuyết chủ nghĩa cộng sản mà nó thề nguyền đi theo, thành ra một nền chính trị thoái bộ, rất giống với các nền chính trị thần quyền thời Trung cổ bên châu Âu.
Hãy xem khẩu hiện rất duy tâm, hoàn toàn chống lại thuyết Marxism của Đảng cầm quyền: “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh MUÔN NĂM”. Marx từng giải thích tại sao loài người thống khổ: vì loài người còn phân chia giai cấp. Mục đích của Marx là làm cho nhân loại tiến đến đại đồng, tức tiến đến thiên đường cộng sản. Muốn đến thế giới cộng sản, phải xóa bỏ các giai cấp: xóa bỏ giai cấp tư sản, xóa bỏ giai cấp vô sản, xóa bỏ nhà nước, xóa bỏ công an, quân đội, tất nhiên phải xóa bỏ cả Đảng Cộng sản, vì Đảng Cộng sản là đảng của giai cấp vô sản. Mà khi xóa bỏ giai cấp, thì đảng của giai cấp cũng không còn. Hô “Đảng Cộng sản Việt Nam MUÔN NĂM” cầm bằng như hô: “Xã hội loài người có giai cấp muôn năm”! Rõ ràng hô như vậy là treo cổ chủ nghĩa Marx, là không chính danh, là tự xóa bỏ tính mục đích của Đảng Cộng sản.
SỰ THẬT THỨ BA:
NÓI MỘT ĐÀNG, LÀM MỘT NẺO, HAY LÀ DANH KHÔNG CHÍNH THÌ NGÔN KHÔNG THUẬN
Đảng, Nhà nước Việt Nam nói thì rất hay, nhưng làm thường ngược lại. Những nguyên tắc, nguyên lý, luật pháp, chính sách, đường lối của Đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam hiện nay hầu hết đều không chính danh.
Xin chứng minh
Trong Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam người dân được hưởng tất cả các quyền: quyền sống, quyền làm người, quyền hoạt động chính trị, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, lập đảng phái, quyền biểu tình, tự do tôn giáo, tự do cư trú, tự do đi lại, tự do đủ thứ…
Chính sách hộ khẩu đã cấm tự do cư trú.
Quyền được biểu tình của dân bị cấm chỉ bởi một nghị định (do Thủ tướng Phan Văn Khải ký): cấm từ năm người trở lên tụ tập hay đi hàng dọc ngoài đường, ngoài phố. Anh bạn chúng tôi có 5 đứa con, cộng hai vợ chồng là 7 người, mỗi sáng Chủ nhật anh chị dẫn bầy con đi tập thể dục tại công viên cách nhà hơn cây số . Đoàn rồng rắn tí hon của anh chị không thể đi thành một hàng, mà phải bí mật xé lẻ thành hai tốp, anh dẫn 3 đứa con, chị dẫn 2 đứa con giả vờ không quen biết nhau, đi vào hai lề đường khác nhau, sợ đi chung sẽ bị công an bắt… Anh bạn này tâm sự: ra Quốc lộ số 1, qua một số đường phố ở các thành phố nhỏ, thấy trâu bò được ung dung đi thành bầy đàn hàng mấy chục con trên đường mà không bị công an bắt? Sao kiếp người ở Việt Nam lại tủi hổ hơn kiếp bò: con bò còn được tự do tụ tập, tự do nghênh ngang rồng rắn trên đường, được Đảng và nhà nước đối xử tử tế hơn hẳn con người… là sao hở các ông trời con?
Tự do tôn giáo bị cái rọ tôn giáo quốc doanh cấm cản. Hàng trăm sư sãi, chùa chiền vốn theo một hệ phái Phật giáo riêng từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam đã bị cấm hoạt động, bắt phải vào Phật giáo quốc doanh, nếu không chịu quốc doanh hóa Phật giáo sẽ bị bắt. Công giáo cũng phải thành Công giáo quốc doanh. Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành… cũng phải vào quốc doanh thì sao gọi là tự do tôn giáo? Ở một đất nước không có TÔN GIÁO TƯ NHÂN, chỉ có TÔN GIÁO QUỐC DOANH mà cứ xưng xưng toe toét: Việt Nam có tự do tôn giáo.
Điều 4 trong Hiến pháp cho phép chỉ một mình Đảng Cộng sản được nắm quyền lãnh đạo mãi mãi, đã cấm mọi công dân tự do hoạt động chính trị, trong khi quyền người dân được tự do hoạt động chính trị ghi rõ ràng trong Hiến pháp. Điều 4 của Hiến pháp là điều không chính danh.
Đảng và Nhà nước có trên 700 tờ báo giấy báo viết báo hình. Xã hội tự xưng  là “nhân dân làm chủ: của dân, do dân, vì dân”, “cán bộ là đày tớ nhân dân”. Tai ngược thay, chính anh đầy tớ này được độc quyền ra báo, lại cấm ông chủ ra báo là sao? Marx – sinh thời từng ca ngợi nền tự do báo chí của chủ nghĩa tư bản. Marx lên án cay độc nhà vua Phổ kiểm duyệt báo chí theo kiểu nhà nước Việt Nam hôm nay lùa tất cả nền báo chí nước nhà vào cái rọ lề phải, đánh sập hơn ba trăm blog và website cá nhân trên Internet như lời khoe khoang của ông tổng cục phó Tổng cục An ninh Bộ Công an, trung tướng Vũ Hải Triều… Không có nền tự do báo chí tư sản, nền xuất bản tự do tư sản, không thể xuất hiện chủ nghĩa Marx. Nếu Karl Marx tái sinh xuất hiện giữa lòng Hà Nội hay Sài Gòn hôm nay, chắc chắn cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản sẽ bị lính của ông Vũ Hải Triều bắt ngay tắp lự.
Khi người dân không có quyền ra báo tư, lập nhà xuất bản tư… cũng có nghĩa người dân Việt Nam hiện nay không có quyền tự do ngôn luận.
Khi Hiến pháp đã cho công dân cái quyền thì người dân không phải đi xin. Hiến pháp bảo công dân có quyền sống, quyền làm người, vậy chả lẽ khi sống là phải thở, phải ăn, phải mặc, phải yêu vợ… thì cứ mỗi lần thở, mỗi lần ăn, mỗi lần mặc, mỗi lần yêu vợ… lại phải làm đơn xin phép công an à?
Hiến pháp của các nước dân chủ văn minh sinh ra để bảo vệ người dân, đảm bảo nhân quyền, dân quyền và mọi quyền tự do của dân, cốt yếu để ràng buộc kẻ cầm quyền. Hiến pháp nước ta hiện nay sinh ra hầu như để chỉ trói buộc người dân và tạo hàng nghìn kẽ hở cỡ lỗ thủng con voi chui lọt cho kẻ cầm quyền tự do đánh tráo Hiến pháp, tự tung tự tác, làm ngược lại Hiến pháp mà không bị luật pháp ràng buộc là sao?
Quốc hiệu nước ta hiện nay xưng là: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực ra có đúng không? Thưa không! Vì nền kinh tế nước ta từ năm 1986 đến nay là nền kinh tế thị trường, tức nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, một chủ nghĩa tư bản hoang dã. Vậy quốc hiệu nước ta muốn sát với “sự thật của đất nước” như gợi ý của Ban Tuyên giáo, phải đặt lại là: “Cộng hòa Tư bản Chủ nghĩa Việt Nam” mới chính danh.
Chủ nghĩa xã hội nói cho cùng là một mô hình ảo, hoàn toàn không có thật. Hồi chúng tôi theo học tại Học viện Gorky bên Liên Xô năm 1988, thường nghe dân Liên Xô định nghĩa về chủ nghĩa xã hội theo mô hình Lenin-Stalin như sau: “Chủ nghĩa xã hội là con đường vòng vèo nhất, đầy máu và nước mắt nhất, khốn nạn nhất để đi lên tư bản chủ nghĩa”. Liên Xô, với mô hình xã hội chủ nghĩa trại lính (hay trại tập trung) đã phải mất 74 năm đi vòng vèo trong máu xương, ngục tù, trong đày đọa của những quần đảo Gulag hắc ám, man rợ… để năm 1991 mới tới được nền kinh tế tự do tư bản chủ nghĩa. Quốc hiệu của nước ta như vậy là không chính danh.
Cái đuôi “Định hướng xã hội chủ nghĩa” được gắn vào đít khái niệm kinh tế thị trường của nhà nước ta hiện nay là một cái đuôi giả, một cái đuôi nhựa chạy bằng cục pin sắp thối của Trung Quốc. Theo nghĩa từ điển: “định hướng” có nghĩa là xác định phương hướng, mà điểm tới đã được xác định cụ thể. Ví dụ ông A hẹn ông B qua điện thoại, rằng mai ta gặp nhau ở Hồ Con Rùa, tập kết tại đó ăn sáng, uống café, định hướng Buôn Ma Thuột mà tới Plây-ku nhé! “Xã hội chủ nghĩa” là khái niệm ảo trên giấy, chưa có thật trên đời và sẽ không thể có thật vì nó dựa trên những nguyên lý ảo tưởng, bịa đặt, phi khoa học.
Đưa đất nước đi vào chỗ không có thật, định hướng tới cõi không có thật mà đến thì than ôi, thà giết đất nước đi còn hơn! Nên khẩu hiệu “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội” in trên đầu tờ Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, nếu theo tiêu chí “hướng về sự thật” của Ban Tuyên giáo chỉ dẫn, phải đặt tên lại cho đúng với thực chất ngữ nghĩa của từ điển là: “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa không có thật” mới đúng. Không có sự thật đi kèm, mọi lý thuyết, mọi mô hình xã hội, mọi lời hứa đều là sai trái, ảo tưởng, hứa hão, đúng như K. Marx đã nói.
Đồng nghĩa Đảng Cộng sản là đất nước, đồng nghĩa chủ nghĩa xã hội là Tổ quốc là không chính danh. Đảng Cộng sản mới chỉ có 5 triệu đảng viên, còn nhân dân Việt Nam ngoài Đảng chiếm đa số tới hơn 80 triệu dân, có phù phép kiểu gì, Đảng Cộng sản cũng không thể biến thành đất nước Việt Nam được. Đảng nghĩa là phe phái, là một nhóm người. Một nhóm người sao có thể biến thành tất cả được, nên danh từ ĐẢNG TA dùng để gọi Đảng Cộng sản là không chính danh. Liên Xô đã bỏ ra 74 năm để tìm mà không thấy chủ nghĩa xã hội đâu, chỉ thấy trại tập trung, thấy nhà tù nhiều hơn trường học. Lenin, Stalin, Mao… đã biến nhân dân các nước Nga, Tàu, Cuba, Bắc Triều Tiên, Việt Nam, Campuchia, hàng chục nước Đông Âu… thành hàng tỉ con chuột bạch cho cuộc thí nghiệm máu cộng sản chủ nghĩa bằng bạo lực, bằng cải tạo áp đặt, bằng thuyết đấu tranh giai cấp tàn bạo nhưng đã thất bại hoàn toàn. Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, Đông Âu giờ đã đi theo tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội là một khái niệm ảo, nên khẩu hiện “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” là rất buồn cười, giống như nói “Yêu nước là yêu cái không có thật” vậy…
Quốc hội nước CHXHCN VN được Đảng Cộng sản và nhà nước phong cho là cơ quan lập pháp cao nhất của nhân dân Việt Nam là không chính danh. Vì thực tế, Quốc hội này chỉ là cơ quan ngoại vi của Đảng, do Đảng lãnh đạo; Quốc hội mà 98% dân biểu là đảng viên của một đảng duy nhất thì việc gọi Quốc hội này của dân là một trò hề, là không chính danh; Quốc hội này của Đảng, dân nào có quyền bính gì trong Quốc hội giả hiệu này?
Việc một nhóm người không ai khiến, tự nhiên nhảy phóc ra đấu trường xã hội ngót trăm năm nay, hung hãn cầm mác cầm lê cầm búa cầm liềm cấm cản những nhóm người khác lập phe đảng là không chính danh, không logic, không công bằng, không có luật hay chỉ là luật rừng?
Đảng Cộng sản Việt Nam không do nhân dân Việt Nam bầu ra, nên sự tồn tại của Đảng để tuyệt đối cầm quyền là không chính danh. Đúng như Mao nói rằng chế độ chuyên chính vô sản của ông ta là do súng đẻ ra: “Súng đẻ ra chính quyền”, tức là SÚNG BẦU RA CHÍNH QUYỀN…
Mấy chục năm nay, người ta đã cố tình gọi nhầm SÚNG là DÂN: “súng bầu lên chính quyền thì lại nói dối là dân bầu”… Cũng giống như (giả dụ thôi, hi vọng đừng biến thành sự thật!) sau bài viết này, công an gọi tên Trần Mạnh Hảo lên… dọa bắn; Hảo ta vốn là một con cáy 64 tuổi biết cầm bút, thấy súng há mồm sắp đối thoại với mình, sợ vãi đái, nghĩ mình miệng hùm gan sứa, sức đâu cãi lại miệng súng, đành phải ký vào giấy cung khai rằng: báo cáo các anh, em đã nói sai, đã nói dối, vì Đảng ta và nhà nước ta từ xưa tới nay thật thà hơn đếm, có biết nói dối là gì đâu. Thế rồi báo An ninh hôm sau hí hửng: trước lý lẽ sắc bén và thực tế sáng ngời chính nghĩa của nhân dân, tên Hảo đã không đủ lý lẽ đối thoại, đã ăn năn hối lỗi vì dám vu cáo cho Đảng ta nói dối…
Việc Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời năm 1930 theo thuyết Marxism là không chính danh.
Marx bảo: chủ nghĩa tư bản xuất hiện với đại công nghiệp. Marx lại bảo phương thức kinh tế châu Á không nằm trong chủ nghĩa Marx. Marx phán: giai cấp vô sản là hệ quả của giai cấp tư bản. Nghĩa là tư bản đẻ ra vô sản. Trung Hoa, Việt Nam và cả châu Á, thế giới Ảrập, Ấn Độ, Mỹ Latinh, Phi Châu… trong thế kỷ thứ 19, đầu thế kỷ thứ 20 chưa hề có chủ nghĩa tư bản. Năm 1930, Việt Nam chưa có ông bố tư bản, sao lại có đứa con tên là vô sản ra đời? Bịa ra một giai cấp vô sản ảo để thành lập ra đảng của giai cấp vô sản là Đảng Cộng sản Đông Dương là không chính danh, là trái với thuyết Marxism, là xây nhà trước, xây nền nhà sau.
Sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Đông Dương nêu khẩu hiệu “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc trốc tận rễ” là không chính danh. Diệt trí thức là diệt đi hai ông đại trí thức Marx-Engels ư? Trí thức là linh hồn của xã hội, diệt trí thức cũng có nghĩa là diệt luôn xã hội loài người.
Năm 1958 – 1960 Bắc Việt Nam (năm 1975 là cả nước) tuyên bố tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội với “mo cơm và quả cà”, không thông qua con đường tư bản chủ nghĩa theo sự xúi dại của Lenin là không chính danh. Theo Marx, linh hồn của xã hội chủ nghĩa là đại công nghiệp; chỉ có nền nông nghiệp lạc hậu mà dám thí mạng cùi tiến lên xã hội chủ nghĩa là tiến lên toàn dân cùng chết đói, hay tiến lên công xã kiểu diệt chủng như Khmer Đỏ, tiến lên “đại nhảy vọt” kiểu Mao khiến mấy chục triệu người chết đói, dân chúng phải ăn thịt cả con mình như cuốn Mao Trạch Đông ngàn năm công tội do Thông tấn xã Việt Nam vừa phát hành đã kể.
Năm 1986, theo gương Trung Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam thay vì chôn chủ nghĩa tư bản (như Marx-Engels dạy) đã quay ngược lại chôn chính học thuyết cộng sản, bằng cách xây dựng nền kinh tế tự do đa thành phần tư bản chủ nghĩa, đưa nhân dân Việt Nam thoát khỏi chết đói. Theo Marx dạy: kinh tế nào, chính trị ấy: hạ tầng cơ sở kinh tế quyết định thượng tầng kiến trúc chính trị. Nay, kinh tế Việt Nam là tư bản tự do mà chính trị vẫn giữ nền chính trị độc tài xã hội chủ nghĩa là sai quy luật, là không chính danh, là đầu chuột đuôi voi, là ông nói gà bà nói thóc lép, là hồn Trương Ba, da hàng thịt…
Marx–Engels từng công khai tuyên bố trong trước tác của mình: “Chúng tôi không có ý định đoán định tương lai một cách giáo điều mà mong muốn dùng phương pháp phê phán thế giới cũ để tìm được một thế giới mới… Việc kiến tạo và tuyên bố một lần và mãi mãi những giải đáp cho các vấn đề của mai sau không phải là việc của chúng tôi…”. Rõ ràng, chính Marx và Engels đã coi học thuyết của mình chỉ là những giả thuyết, những phép thử, những phỏng định về tương lai, tuyệt nhiên không giáo điều cho lý thuyết của mình là chân lý vĩnh hằng. Những ai đã, đang coi học thuyết Marx là chân lý bất biến là đang chống Marx, là muốn dùng Marx giả, Marx dỏm bịt mắt trí thức và nhân dân để quyết câu giờ giữ quyền lực là không chính danh.
Theo định đề: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” của Marx, chúng ta thấy thực tế đã không chấp nhận cuộc thí nghiệm XÓA TƯ HỮU hãi hùng nhất trong lịch sử loài người của Marx-Engels-Lenin với tham vọng “XÓA TƯ HỮU, XÓA CÁ NHÂN, XÓA NHÀ NƯỚC, XÓA MÂU THUẪN, XÓA ĐẢNG CỘNG SẢN, XÓA CÁC GIAI CẤP VÀ ĐẢNG CỦA NÓ, XÓA CHÍNH BIỆN CHỨNG PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG MỘT XÃ HỘI CỘNG SẢN ÁO TƯỞNG PHI BIỆN CHỨNG – NƠI KHÔNG CÓ CÁI DỐI TRÁ, KHÔNG CÓ CÁI ÁC ĐỘC VÀ CÁI XẤU XA, NƠI TUYỆT ĐỐI TỰ GIÁC, TUYỆT ĐỐI TỰ DO, TUYỆT ĐỐI GIÀU CÓ, TUYỆT ĐỐI KHÔNG CÓ NGOẠI TÌNH, KHÔNG CÒN HÔN NHÂN, KHÔNG CÒN GIA ĐÌNH KIỂU CŨ, KHÔNG CÒN NGÂN HÀNG, KHÔNG CÒN TIỀN TỆ…”. Đó là một xã hội bịa đặt không có thật: vì không có cái ác thì cái thiện cũng bị triệt tiêu, không có cái ngụy thì cái chân cũng biến mất, không có cái xấu thì cái đẹp cũng chẳng còn…
Một trăm sáu mươi hai năm từ khi “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” của Marx–Engels ra đời đến nay, hàng trăm triệu sinh mạng đã bị giết, hàng tỉ người bị tù đầy, bị ngược đãi để “các vị lãnh tụ kính yêu” làm cuộc thí nghiệm đẫm máu cải tạo thế giới từ TƯ HỮU sang CÔNG HỮU, từ TƯ BẢN sang VÔ SẢN, từ CÁ NHÂN sang TẬP THỂ, XÓA QUỐC GIA chỉ còn QUỐC TẾ, XÓA HOÀN TOÀN THẾ GIỚI CŨ, NHÂN LOẠI CŨ chỉ còn MỘT THẾ GIỚI MỚI TINH, NHÂN LOẠI MỚI TINH KHÔNG CÒN TRUYỀN THỐNG, KHÔNG CÒN LỊCH SỬ, KHÔNG CÒN QUÁ KHỨ, KHÔNG CÒN TÔN GIÁO…
Chao ôi, khi một con người không còn quá khứ, một dân tộc không còn lịch sử, con người ấy, dân tộc ấy sẽ biến thành tinh tinh, xã hội tinh tinh hay thành những cục bột biết ca hát?… Rút cục, cuộc thí nghiệm cộng sản kinh hồn trên phạm vi toàn thế giới đã hoàn toàn thất bại. Những nước cộng sản cứng đầu nhất như Bắc Triều Tiên, Cuba hiện nay cũng đang rục rịch thí nghiệm mô hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, tập toẹ học lại những bước đi làm giàu vỡ lòng nhân loại đã có từ trước khi Marx ra đời. Đây là sự thật không thể nào chối cãi, dù cãi cối cãi chày bằng còng số tám hay nhà tù, họng súng v.v…
Cám ơn Marx, đã cho chúng tôi đề bài “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” để làm một bài tập làm văn về sự thật này. Cám ơn ngài cố Tổng thống nước Ba Lan tự do Lech Kaczyński đã cho chúng tôi ý tưởng rất hay: chỉ có sự thật mới giải phóng con người, làm chủ đề bài tham luận. Chúng tôi cũng xin cám ơn tiêu đề của cuộc hội thảo “Văn học nghệ thuật hướng về sự thật đất nước” của Ban Tuyên giáo Trung ương đã gợi ý, khích lệ chúng tôi dám liều mạng nói lên những sự thật cay đắng nhất, khủng khiếp nhất của đất nước chúng ta hiện nay, những sự thật chết người, ai ai cũng biết mà vì sợ tù tội nên không ai dám nói ra.
Viết đến đây, chúng tôi chợt nhớ đến truyện “Bộ long bào của vị hoàng đế” của văn hào Andersen. Thằng bé trong thiên truyện đã liều mạng xé toang bộ long bào hoang tưởng của vị hoàng đế kia bằng cách hét thật to: ông vua cởi truồng! Tiếng kêu thất thanh của chân lý ấy có làm đám đông đang bị quyền lực hôn mê, luôn miệng tung hô vị hoàng đế mặc bộ long bào đẹp nhất tỉnh ra hay không? Nhưng hình như ngay sau khi gọi sự vật bằng tên của nó, thằng bé do sự thật, do tự do phái đến đã biến mất. Do đó, mới còn biết bao nhiêu ông vua triết học cởi truồng, vua chính trị cởi truồng, vua cách mạng cởi truồng, vua chủ nghĩa cởi truồng… đang đi nhông nhông ngoài xã hội, ngoài phố xá, đã và đang được những đám đông giả vờ cuồng tín hòng trục lợi xúm vào vạn tuế, ca ngợi các ngài khoác những bộ long bào tuyệt vời của trần gian…
Sự thật giản dị nhường ấy, sao bị cả đám đông lờ đi? Mới hay sự cám dỗ của dối trá có bùa ngải quỷ sứ, mê hoặc con người trong bóng tối, trong đe dọa, trong hấp lực của củ cà rốt treo trước miệng con lừa… Sự thật chỉ có thể tồn tại công khai dưới ánh sáng mặt trời. Xã hội của những hội kín vây bủa con người trong lừa mị, trong sợ hãi u u minh minh, luôn xua đuổi và cầm tù sự thật. Chối bỏ sự thật, những xã hội do băng đảng hội kín cầm quyền hầu như không bao giờ đi cùng đường với lẽ phải và công lý.
Chúng tôi không dám làm thằng bé trong thiên truyện kia của Andersen; làm vị thiên sứ của sự thật này, coi chừng khả năng biến mất là điều có thể xảy ra. Hãi quá!
Chúng tôi chỉ xin kể ra ba vị nhà văn Việt Nam hình như cũng đang thử đóng vai trò của thằng bé ấy, vai trò thiên sứ của sự thật, của tự do.
Đây là lời của nhà văn Đỗ Chu bùi ngùi, chua xót, khi ông nói về sự lãnh đạo của Đảng với nhà văn; sao nhà văn giống chú cún con ve vẩy đuôi theo ông chủ trong sân nhà thế: “Tớ yêu Đảng như yêu vợ. Vợ còn sống thì tớ nghe vợ. Vợ chết thì tớ lập bàn thờ khấn vái cho đến chết. Đảng cũng là vợ của tớ. Đảng bẩn thì tớ mua xà phòng cho Đảng tắm. Mua nước hoa cho Đảng thơm. Đảng nói thì không được cãi. Đảng bảo ăn là ăn. Đảng bảo uống là uống. Đảng bảo nằm là nằm. Đảng bảo lên giường là lên gường. Đảng bảo ra đường là ra đường…” (Trích bài “Nhà văn Đỗ Chu yêu Đảng như yêu vợ” của Nguyễn Trọng Tạo ngày 13/7/2010). Về việc này, mới thấy Nguyễn Vĩ xưa thánh thật, khi ông viết: “nhà văn An Nam khổ như chó!”.
Đây là mấy câu thơ của nhà văn, nhà thơ Nguyễn Đình Chính (con trai cố nhà văn Nguyễn Đình Thi, người rất nhiều năm trước và sau 1975 từng làm Tổng Thư ký – ngày nay gọi là Chủ tịch – Hội Nhà văn Việt Nam): “Mấy thằng bạn văn nghệ chửi đổng hát hay / Cổ họng rắn hổ mang trơn tuột liếm mồi trong các HỘI ĐOÀN / hót hít chính trị như chó hít hóng cứt…” (Trích trong bài thơ “Đêm Sài Gòn” in trong tập thơ Chẹc chẹc của Nguyễn Đình Chính, do Tân Hình thức Publishing Club ấn hành trên mạng 2010).
Đây là nhà văn đại tá công an Mai Vũ, trước Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ XIII, đã lên tiếng đòi tự do sáng tác, mặc dù từ năm 1987, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã cởi trói cho các nhà văn:
“Đây là vấn đề nhạy cảm mà không phải ai cũng có dũng khí dám nói thật. Nhằm thiết lập một trật tự xã hội tư duy đồng chiều, chúng ta đã chính trị hóa mọi đời sống xã hội. Điều đó thật tai hại, nó làm khô héo tinh thần dân tộc. Chính trị hóa khoa học đã dẫn đến phủ nhận chân lý khách quan, làm méo mó khoa học. Trong lịch sử Xô Viết trước kia, đã có thời người làm vườn Lưxenkô – Mitsurin được tôn vinh như những nhà cải cách vĩ đại, còn Mooc găng, Menđen là những kẻ phục vụ chủ nghĩa tư bản vì thuyết gen di truyền. Kết quả, nhà di truyền học thiên tài Vavilôp đã phải tự sát, còn nền di truyền học nước Nga thì lụn bại, để lại một vết nhơ đau đớn trong đời sống khoa học xã hội Xô Viết. Đó là vụ ngụy khoa học lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Chính trị hóa giáo dục cũng chỉ đẻ ra những chiến binh đánh bom tự sát, chứ không đẻ ra những công dân xây dựng tương lai.
Hội Nhà văn không phải là dàn hợp xướng để hát theo cái gậy chỉ huy của người nhạc trưởng. Nó là lãnh địa của những tư duy và sáng tạo cá nhân, nó là một tổ chức xã hội nghề nghiệp tự nguyện của các nhà văn lấy sứ mạng phục vụ Tổ quốc và nhân dân trên hết.
Nhà văn viết theo mệnh lệnh của trái tim, mà trái tim nhà văn thuộc về Tổ quốc và nhân dân. Anh ta là tội đồ và đáng nguyền rủa nếu thóa mạ Tổ quốc và dân tộc. Còn khuynh hướng chính trị tùy thuộc quyền lựa chọn của mỗi nhà văn. Hãy để con ngựa Văn tung vó trên cánh đồng bát ngát của tự do” (“Về Hội nhà văn của chúng ta” của Mai Vũ, in trên website Trần Nhương ngày 11-7-2010)
Tiếp nối ba nhà văn trên, chúng tôi xin mời quý vị đọc lại bài thơ “Bài ca sự thật” của chúng tôi (Trần Mạnh Hảo) đã in trên báo Tuổi trẻ số tất niên ngày 24- 01-1987
BÀI CA SỰ THẬT
Sự thật của tôi
Sự thật của anh
Sự thật của chúng ta
Sự thật của mọi người?
Nhân loại có bao thời
Sự dối trá làm quan toà phán xử
Bru-nô ơi trái đất vẫn tròn
Mà chân lý nghìn sau còn trả giá
Nhưng đất nước vẫn đi tìm sự thật
Trong câu hát có mồ hôi nước mắt
Có con nghê đá đầu đình cười cợt các triều vua
Có thằng Bờm chẳng tin lời hứa hão
Cái quạt mo không để phú ông lừa
Vua Hùng ơi! Người đi tìm sự thật
Bằng cách ngày đầu năm xuống ruộng cày bừa
Bao triều đại xưa đổ vì ưa nói dối
“Muốn nói gian làm quan mà nói”
Sự thật giấu trong nhà dân đen
Sự thật từng vật vờ đi như ăn mày đầu đường xó chợ
Sự thật làm anh hề, chú mõ
Sự thật như nàng Thị Kính oan khiên
Sự thật trốn vào ngụ ngôn, ngạn ngữ sấm truyền
Sự thật có khi mượn Xuý Vân mà giả dại
Sự thật chiếc lá đa bay qua bao thời đại
Bay về đây trời nổi can qua
Con vua thất thế quét chùa sãi ơi!
Vĩnh biệt chú Cuội
Vĩnh biệt thành tích ma, báo cáo láo thành thần
Bệnh hình thức gọi sai tên sự vật
Người đói phải nói lời no
Vị đắng sao lại kêu là mật?
Ngục tù mang nhãn hiệu tự do!
Vĩnh biệt khái niệm quét vôi và từ ngữ nước sơn
Đạo đức dính trên đầu môi chót lưỡi
Vĩnh biệt những bóng ma cơ hội
Những cái đầu già cỗi tự bên trong
Những con mắt nhìn người bằng bóng tối
Có nhận ra tia nắng mới trong lòng ?

Tôi là người tập yêu sự thật
Tập nghe nên có lúc ù tai
Tập nhìn nên chói mắt
Đất nước đổi thay
Cơn đau đẻ những dòng sông quằn quại!
Hạt thóc và hạt máu có bao giờ nói dối?
Bốn nghìn năm dân tộc tôi
Đi từ bờ bên kia
Đến bờ bên này của sự thật
Để mỗi con người hôm nay trên mặt đất
Được cầm trong tay một tia nắng mặt trời…


Sài Gòn ngày 15-1-1987
Trần Mạnh Hảo

_____________
Để kết thúc bản tham luận, xin kính mời quý vị cùng chúng tôi hô 3 khẩu hiệu sau:
Khẩu hiệu một:
KHÔNG CÓ SỰ THẬT, KHÔNG CÓ LẼ PHẢI VÀ CHÂN LÝ(xin hô ba lần: không có, không có, không có)
Khẩu hiệu hai:
CHỈ CÓ SỰ THẬT MỚI GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
(xin hô ba lần: chỉ có, chỉ có, chỉ có)
Khẩu hiệu thứ ba:
SỰ THẬT LÀ TIÊU CHUẨN CỦA CHÂN LÝ
(xin hô ba lần: tiêu chuẩn, tiêu chuẩn, tiêu chuẩn)
Xin cám ơn quý vị.
Viết tại Sài Gòn 26-07-2010
© 2010 Trần Mạnh Hảo

Cách nào Mỹ đã phục kích Trung Cộng ngay sân sau, và chuyện gì sẽ tiếp diễn


Cuộc phục kích Trung Cộng (TC) về quyền sở hữu tại Biển Đông do Mỹ dẫn đầu tại diễn đàn an ninh vùng cấp cao vào hôm thứ Sáu đánh dấu một biến chuyển rõ ràng về quan hệ TQ-Mỹ và đào sâu thêm lằn ranh chiến lược tại Á Châu.
Trong khi Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton hầu như tắm mình trong Biển Đông tại Hà Nội, tàu chiến Mỹ và Hàn Quốc sửa soạn tập trận tại Biển Nhật Bản, hay Biển Đông (đối với TC) gần Đông Bắc TC – làm tình hình căng thẳng thêm.
Sự kiện xảy ra tại Hà Nội có ý nghĩa đặc biệt. Khi bà Clinton tuyên bố việc giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông bây giờ là một “quan tâm quốc gia” và “vấn đề ngoại giao ưu tiên” của Mỹ, bà đã không chỉ nói đến quan ngại của Mỹ về việc thống trị hàng hải của TC, mà còn chứng tỏ Mỹ hiểu rất rõ một cơ hội lịch sử nữa.
Đã nhiều tháng nay, tiếng nói quan ngại về đòi hỏi chủ quyền của TQ càng ngày càng to hơn tại Washington, trong khi chính phủ mới của Tổng thống Barrack Obama còn đang hoạch định phương sách trở lại vùng biển bị bỏ quên này. Bị báo động bởi tiếng ngân đi ngân lại là Mỹ đã trở thành một cường quốc xuống dốc, các chính khách Mỹ nói riêng với nhau là Mỹ cần phải nắm lại vị thế chiến lược mạnh nhất tại Á Châu.
Mỹ có cơ hội làm việc trên do TC càng ngày càng đòi hỏi sở hữu hầu như toàn thể Biển Đông bằng chứng cớ lịch sử và cả pháp quyền – qua việc bắt nhốt hàng trăm ngư nhân Việt Nam, quấy nhiễu các tàu hải quân Mỹ và và hải quân các nước khác, cùng là đe dọa các hãng dầu quốc tế với mục đích khiến họ hủy bỏ các giao kèo thăm dò dầu khí ký kết với Hà Nội.
Nước cờ của Mỹ không phải chỉ để làm vừa lòng các nước tranh giành chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa – Việt Nam, Mã Lai, Phi Luật Tân và Brunei – mà còn trấn an các nước tranh chấp với TQ lớn hơn như Hàn Quốc, Nhật Bản và Nam Dương bằng cách gửi một thông điệp rõ ràng tới TC.
Trong suốt 15 năm qua, Washington đã đứng bên lề các căng thẳng tại Biển Đông, một vùng biển chiến lược và có nhiều quặng mỏ nối liền Đông Á với Trung Đông và Âu Châu. Các người đại diện Mỹ thỉnh thoảng nói tới quan ngại của Mỹ và sự cần thiết thỏa thuận lãnh thổ lãnh hải một cách hòa bình, nhưng không bênh vực bên nào.
Lời phát biểu của Ngoại trưởng Clinton đã làm chính sách trên thay đổi. Các phát biểu đó đặt nước Mỹ trực diện với vấn đề chủ quyền của TC – vấn đề mà mới đây TC tuyên bố là “quyền cốt lõi,” một lối nói ngoại giao đặt vấn đề Biển Đông là nhạy cảm như Đài Loan và Tây Tạng
Vào đầu năm nay, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ là TS Robert Gates tuyên bố tại một diễn đàn an ninh tại Singapore là Washington phản đối bất cứ hành vi nào đe dọa các hãng dầu Mỹ trong việc ký kết các hợp đồng hợp pháp trong vùng.
Ngoại trưởng Clinton đưa ra các tuyên bố của mình tại Diễn đàn vùng ASEAN chính thức, trong các cuộc họp tay đôi với các nước và trước công chúng. Cùng khi đó, các tùy viên của bà còn tóm lược cho đoàn phóng viên báo chí từ Washington đi theo, để họ không lỡ mất quan điểm này.
Trong khi vẫn giữ nguyên lập trường cũ của Mỹ là không thiên vị bên nào, bà Clinton nói rõ là Washington muốn các bên trong vùng thảo luận và giải quyết với nhau – một thách đố trực tiếp với Bắc Kinh khi TQ nói riêng và nói mạnh với từng nước là TQ không muốn bàn vấn đề chung mà chỉ muốn làm việc riêng với từng nước. Nói cách khác, mỗi nước đòi chủ quyền phải xếp hàng để thương lượng riêng với TC.
Bà Clinton tuyên bố: “Hoa Kỳ ủng hộ phương sách ngoại giao cộng tác giữa các nước đòi chủ quyền để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ lãnh hải mà không bị gò ép. Hoa kỳ chống đe dọa dùng bạo lực bởi bất cứ bên nào”.
Lời tuyên bố của bà Clinton là một thắng lợi ngoại giao đáng kể cho Việt Nam – một món quà cho Việt Nam trong dịp hai nước đánh dấu 15 năm lập lại quan hệ ngoại giao sau chiến tranh Việt Nam và gần 20 năm cấm vận kinh tế.
Trong nhiều tháng nay, Việt Nam dùng chức vị Chủ tịch của ASEAN gồm 10 nước Đông Nam Á để làm sôi động vấn đề Biển Đông. Việt Nam đã hết hơi sức tạo tiến bộ cho cách ứng xử hợp pháp của các bên đòi chủ quyền – lời hứa của các bên trong Tuyên ngôn 2002 ASEAN và TQ ký kêu gọi sự tự chế. Tuyên ngôn này lúc đầu được ca ngợi là có tiến bộ, nhưng càng ngày càng trở thành một văn bản chết trước các hành động của TC.
Bà Clinton nói đi nói lại các nguyên tắc của Tuyên ngôn 2002, nghe êm tai như âm nhạc đối với các viên chức Việt Nam.
Mới năm ngoái, TC coi như đã chia rẽ được ASEAN, khi mỗi thành viên có mòi đặt liên hệ với Bắc Kinh quan trọng hơn sự đoàn kết trong ASEAN. Trong các hội thảo chính thức, vấn để Biển Đông ít được đề cập. Và theo nhiều nhà ngoại giao của ASEAN, TC luôn luôn đặt áp lực. Ngay như Cam-pu-chia, khi xưa thường đồng minh chặt chẽ với Hà Nội, cũng theo Bắc Kinh mà gạt bỏ các nỗ lực của Việt Nam.
Sự cẩn trọng của các nước còn hiện rõ chỉ vài giờ trước khi bà Clinton tới họp. Vào ngày trước Diễn đàn ASEAN, Ngoại trưởng các thành viên của ASEAN có buổi họp với Ngoại trưởng TC Yang Jiechi (Dương Khiết Trì). Phi Luật Tân là nước duy nhất đề cập vấn đề Biển Đông. Sự e ngại của các nước kia phản ánh phương cách truyền thống của ASEAN. Các cuộc họp và tuyên ngôn chính thức thường càng ít nội dung càng tốt.
Ngay như Việt Nam cũng ít khi chỉ trích TC công khai, mà hay giữ bề ngoài thân thiện. Ngay như hôm qua (24/7/2010) khi còn đang say với thắng lợi hiếm có, thông tấn nhà nước vẫn thận trọng chỉ lặp lại tuyên bố chính thức của các buổi họp.
Một quan sát viên ngoại giao nói: “Thật đáng để ý. Không nước nào muốn dẫn đầu. Họ đều mong có sự an toàn ở số đông”.
Sự an toàn đó hầu như đã đến khi bà Clinton tới Hà Nội ngày thứ Năm (22/7/2010), và có lời đồn là bà sẽ đưa ra lập trường quyết liệt mới của Mỹ.
Khi diễn đàn bắt đầu vào thứ Sáu (23/7/2010), 11 nước sẵn sàng có phát biểu, gồm cả Brunei, Mã Lai, Phi Luật Tân và Việt Nam – các nước có nhiều quyền lợi bị đe dọa nhất – đến Nam Dương, Liên hiệp Âu châu, Úc và Nhật. Diễn biến coi như một cuộc đấu vật tiếp sức rất ấn tượng.
Mặc dầu Ngoại trưởng TC Yang tỏ ra rất hoang mang sau đó, diễn biến này không thể là một bất ngờ cho Bắc Kinh. Suốt năm qua, các động thái quân sự, chính trị, và ngoại giao đều chĩa vào quan ngại càng ngày càng lớn trong vùng Biển Đông.


Các lãnh đạo quân sự Việt Nam, trước kia thường rất e dè, đã được mời quan sát hàng không mẫu hạm Mỹ ở Biển Đông và tàu ngầm Mỹ ở Hawaii. Và Việt Nam đã cho phép tàu chiến Mỹ sửa chữa tại các hải cảng địa phương.
Hà Nội còn ký giao kèo với đồng minh trong chiến tranh lạnh là Nga để mua sáu tàu ngầm tiên tiến loại Kilo.
Trong khi đó, các viên chức Ngũ Giác Đài và Bộ Ngoại giao Mỹ càng ngày càng nói rõ trong điều trần trước Quốc hội là Mỹ cần khẳng định quyền đi lại trên hải phận quốc tế dù cho TQ có quan ngại. Mặc dầu TQ tuyên bố chủ quyền kinh tế tại hầu hết Biển Đông, Hoa Kỳ và các nước khác nhất định các vùng biển đó vẫn là hải phận quốc tế và do đó có quyền thực hiện các hoạt động quân sự kể cả thám thính.
Căng thẳng nảy sinh và nổi cộm khi Bộ trưởng Gates phát biểu tại Singapore trước một thính giả gồm nhiều viên chức cấp cao của Quân giải phóng nhân dân TC (QGPND).
Sau đó, một viên chức của QGPND nói giận dữ: “Chúng tôi không coi Biển Đông là một cái hồ của TQ, và chúng tôi vẫn cho phép tàu bè không ác ý qua lại. Nhưng tôi xin lỗi, việc Mỹ thám thính chúng tôi không phải là không ác ý. Mọi người không nên đánh giá thấp quan ngại của TC”.
Chúng ta sẽ chờ xem Washington có đánh giá thấp quan ngại của TQ không. Nhưng không nghi ngờ gì nữa là Bắc Kinh sẽ coi các sự kiện xảy ra tại Hà Nội như một khiêu khích đáng kể. Các nước trong vùng cũng càng ngày càng biết rõ Biển Đông là rất quan trọng cho tham vọng của TQ có một hải quân “đại dương” với sức hoạt động xa đất liền, bởi vì Biển Đông là cửa ngõ cho TQ giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
Điều rõ ràng là Hoa Kỳ nay sẵn sàng giải quyết một trong những vấn đề khó khăn nhất của vùng – một thay đổi chính sách rất khó đi ngược lại. Và đối với TC, tuần trăng mật với ASEAN nay đã kết thúc.
Trong bao rủi ro, Washington tìm ra cơ hội.
South China Morning Post là báo xuất bản tại Hongkong từ năm 1904, hiện xuất bản 105,000 số hàng ngày.


PLĐ

South China Morning Post
July 25, 2010 Sunday
How the US ambushed China in its backyard, and what happens next


Greg Torode
Chief Asia correspondent in Hanoi


The Washington-led ambush of China over the disputed South China Sea at the region’s top security forum on Friday marks a landmark shift in Sino-US ties and exposes deepening strategic fault lines in Asia.
Even as US Secretary of State Hillary Clinton figuratively waded into the South China Sea in Hanoi, US and South Korean naval vessels prepared to stage large-scale exercises in the Sea of Japan, or East Sea, close to China’s northeast – adding to the tensions of the new landscape.
What happened in Hanoi is particularly significant. When Clinton declared that resolving territorial claims in the South China Sea was now in the United States’ "national interest" and "a diplomatic priority", she was not just reflecting growing US concern about the potential for Chinese maritime dominance. It showed Washington had firmly grasped an historic opportunity, too.
For months now, a rising chorus of East Asian concern at Chinese assertiveness has been voiced in Washington, just as the young administration of US President Barack Obama mapped out ways to re-engage with a neglected region. Alarmed by the refrain that the US was a declining power, US officials spoke privately of the need to reassert US strategic primacy in Asia.
China’s increasingly strident assertions of its historic, and now legal, claim to virtually the entire sea – exemplified by its detention of hundreds of Vietnamese fishermen, the harassment of ships of the US and other navies and threats made to international oil giants aimed at ending their exploration deals with Hanoi – provide that opportunity.
The US move is not just about pleasing China’s rival claimants to the sea’s Spratly and Paracels archipelagoes – Vietnam, Malaysia, the Philippines and Brunei – but reassuring bigger players such as South Korea, Japan and Indonesia by sending a stark message to China.
For most of the past 15 years, Washington has kept firmly to the sidelines of tensions in the South China Sea, the strategic and mineral-rich waterway that links East Asia to the Middle East and Europe. Its envoys occasionally raised concerns about the need for a peaceful settlement of territorial disputes but took no side in the territorial disputes.
Clinton’s remarks change all that. They put the US at the forefront of a Chinese sovereign issue – and one it recently stated was a "core interest", diplomatic code that ranks it with Taiwan and Tibet for sensitivity.
Earlier this year, US Defence Secretary Dr Robert Gates told a security forum in Singapore that Washington objected to any effort to intimidate US oil firms engaged in lawful contracts in the region.
Clinton made her comments in the formal setting of the Asean Regional Forum, in bilateral meetings and in public statements. Her officials, meanwhile, briefed the travelling Washington press pack so they would not miss the point.
While she stuck to the old script about not taking sides, she made clear Washington wanted to foster regional discussions and solutions – a direct challenge to Beijing, which had tried, discreetly but forcefully, to scotch Asean discussion of the issue and whose envoys have insisted it should be handled bilaterally – in other words, by having individual claimants line up to cut their own deals with China.
"The United States supports a collaborative diplomatic process by all claimants for resolving the various territorial disputes without coercion," Clinton said. "We oppose the use or threat of force by any claimant."


Her words were a significant diplomatic victory for Vietnam – a gift from Washington as the two countries mark 15 years since their formal restoration of diplomatic ties following the Vietnam war and a near-20-year economic embargo.
For months, Vietnam has been seeking to exploit its turn as chairman of the 10-nation Association of Southeast Asian Nations to keep the South China Sea issue on the boil. It is desperate to make progress on a legally binding code of conduct for all claimants to the sea’s riches – a pledge made in a 2002 declaration signed between Asean and China on the South China Sea calling for self-restraint. The declaration was initially hailed as a significant step forwards, but increasingly appeared a dead letter in the face of China’s actions.
Clinton repeatedly referred to the principles of that declaration, music to the ears of Vietnamese officials.
Just a year ago, China was widely seen as having split Asean, with each member putting its own relations with Beijing before Asean unity. There was little momentum on the issue in formal meetings. And in the background, Chinese pressure was constant, according to several Asean diplomats. Even Cambodia, whose regime was once closely allied to Hanoi, was quashing Vietnam’s efforts on behalf of Beijing.
That caution was still visible hours before Clinton’s arrival. On the eve of the Asean Regional Forum, the bloc’s foreign ministers had their formal annual meeting with Foreign Minister Yang Jiechi . Only the Philippines raised the South China Sea issue. Such reticence reflects the traditional Asean way. Formal meetings and statements are generally as bland as possible.
Even Vietnam rarely rebukes China in public, preferring to maintain the façade of fraternity. Yesterday, flush with a rare victory, its ever-cautious state press stuck to official blandishments about the meetings.
"It was remarkable," one diplomatic observer said. "No one wanted to lead from the front. They were all waiting for safety in numbers."
Clinton’s arrival on Thursday appeared to provide that sense of safety, as word spread of her new firm line.
By the time the forum started on Friday, 11 other members were ready with statements, including Brunei, Malaysia, the Philippines and Vietnam – those with most at stake – as well as Indonesia, the EU, Australia and Japan. What followed was a rarefied form of tag-team wrestling.
While Yang expressed exasperation afterwards, what happened should not have come as any surprise to Beijing. For more than a year, military, political and diplomatic manoeuvres have pointed to the growing concerns in the region.
Once-reticent Vietnamese military chiefs have been flown out to US aircraft carriers in the South China Sea and been invited aboard US submarines in Hawaii. And Vietnam has allowed US warships to be repaired in local ports.
Hanoi has also struck a deal with former cold war ally Moscow to buy six state-of-the- art Kilo class submarines.
Pentagon and US State Department officials, meanwhile, have been increasingly explicit in testimony to the US Congress about the need to assert US navigational rights in international waters in spite of China’s concerns. While China claims much of the South China Sea as its exclusive economic zone, the US and other nations insist that it is still in international waters and thus that routine military operations, including surveillance, are allowed.
The tensions this creates bubbled to the surface when Gates spoke in Singapore to an audience that included senior officers of the People’s Liberation Army.
"We are not treating it as a ‘Chinese lake’, we do allow innocent passage," one PLA official fumed afterwards. "But I’m sorry, US surveillance is not innocent passage. The concern of China must not be underestimated. "
Whether or not Washington has underestimated those concerns remains to be seen. Undoubtedly Beijing will see the events in Hanoi as a considerable provocation. There is a growing sense in the region, too, that the sea is vital to China’s ambitions for a "blue water" navy able to operate far from its shores, since it provides its only deep-water gateway to the Pacific and Indian oceans.
What is clear is that the US is now prepared to tackle one of the region’s most intractable problems – a policy shift that will not be easy to back away from. And for China, any Asean honeymoon is over.
For all the risks, Washington senses opportunity.

Bài phát biểu của bà Hillary Clinton tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Hà Nội, Việt Nam



Ngoại trưởng Clinton: Chào tất cả mọi người. Hôm nay tôi hoàn tất chuyến đi thứ năm của tôi đến châu Á kể từ khi trở thành ngoại trưởng. Hôm qua, tôi đến Việt Nam và tôi được vinh dự có mặt ở đây để kỷ niệm lần thứ 15 năm ngày bình thường hóa quan hệ ngoại giao của chúng ta. Ngày hôm trước, tôi đã ở Seoul, chuyến thăm thứ ba của tôi đến Nam Hàn với tư cách ngoại trưởng. Bộ trưởng Gates và tôi đã gửi thông điệp mạnh mẽ rằng 60 năm sau khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, liên minh Mỹ - Nam Hàn mạnh mẽ, giúp bảo đảm hòa bình, an ninh và tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế trong khu vực.
Và bây giờ tôi vừa hoàn thành hai ngày thảo luận chuyên sâu với các đồng sự ASEAN của tôi và với các đối tác khác, những người đã đến đây theo đuổi nỗ lực chung: tăng cường an ninh, thịnh vượng, và [tìm kiếm] cơ hội trên khắp châu Á.
Hôm qua, tôi tham dự cuộc họp hàng năm cấp bộ trưởng Hoa Kỳ - ASEAN, nơi chúng ta đã thảo luận sự tham gia sâu rộng của đất nước tôi ở Đông Nam Á và các cơ hội chúng ta nhìn về phía trước trên nhiều mặt trận – từ đầu tư thương mại mở rộng, cho tới hợp tác nhiều hơn đối với hòa bình và an ninh, kết hợp các nỗ lực để đương đầu với những thử thách xuyên quốc gia, như biến đổi khí hậu, nạn buôn người, phổ biến vũ khí hạt nhân, và nhiều vấn đề khác.
Và hôm nay tôi đã tham dự cuộc họp hàng năm diễn đàn khu vực ASEAN lớn hơn để tiếp tục và mở rộng các cuộc thảo luận của chúng ta. Như tôi đã nói khi tôi tham dự diễn đàn này mùa Hè năm ngoái ở Thái Lan, chính phủ Obama cam kết sự tham gia rộng, sâu, và bền bỉ ở châu Á . Và như tôi đã thảo luận trong bài phát biểu tại Hawaii hồi mùa Thu năm ngoái, chúng tôi tập trung vào việc giúp tăng cường cấu trúc thể chế ở Châu Á Thái Bình Dương .
Trong 18 tháng qua chúng tôi đã ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác, thông báo ý định của chúng tôi để mở một toà đại sứ và chỉ định một đại sứ ASEAN tại Jakarta, và đã tổ chức hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ - ASEAN đầu tiên. Và chúng tôi đã theo đuổi những nỗ lực tiểu khu vực (sub-regional) mới như quan hệ đối tác mới ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Dựa vào sự tiến triển đó, tôi chuyển đến các đồng sự của tôi sự quan tâm của chúng tôi trong việc tham gia Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) vì nó đóng vai trò ngày càng tăng các thách thức trong thời đại chúng ta. Và tôi đã thông báo rằng Tổng thống Obama đã yêu cầu tôi đại diện cho Hoa Kỳ trong một khả năng thích hợp tại EAS năm nay ở Hà Nội để tiếp tục quá trình tham vấn với quan điểm về sự tham gia của người Mỹ hoàn toàn ở cấp tổng thống vào năm 2011. Thông qua các cuộc tham khảo, chúng tôi sẽ làm việc với các thành viên EAS để khuyến khích phát triển thành một nền tảng an ninh và thể chế chính trị cho châu Á trong thế kỷ này. Tổng thống cũng hướng tới việc chủ trì cuộc họp thứ hai của lãnh đạo Hoa Kỳ - ASEAN tại Hoa Kỳ vào mùa Thu tới.
Hôm nay chúng tôi thảo luận một số thách thức cấp bách trong đó có Bắc Hàn và Miến Điện. Tôi khuyến khích các đối tác và đồng minh tiếp tục thi hành đầy đủ và minh bạch Nghị quyết Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc 1874, và gây sức ép với Bắc Hàn thi hành nghĩa vụ quốc tế. Tôi cũng kêu gọi Miến Điện đưa ra các điều kiện cần thiết cho cuộc bầu cử đáng tin cậy, gồm cả việc phóng thích tất cả các tù nhân chính trị, đặc biệt là bà Aung San Suu Kyi, tôn trọng các quyền cơ bản của con người, và ngừng các cuộc tấn công chống lại các dân tộc thiểu số của họ. Và như tôi đã nói trong các cuộc họp ngày hôm nay, rất quan trọng để Miến Điện lắng nghe từ các nước láng giềng về sự cần thiết phải tuân theo các cam kết của mình, theo hiệp ước chống phổ biến vũ khí hạt nhân, để thực hiện các nghĩa vụ an toàn của IAEA và tuân theo Nghị quyết 1874 và 1718.
Chúng tôi cũng thảo luận một số chủ đề quan trọng khác như: biến đổi khí hậu, thương mại và hội nhập kinh tế, dân chủ và nhân quyền. Và tôi nắm lấy cơ hội cùng với một số đồng sự ASEAN và các đồng sự Diễn đàn Khu vực ASEAN để bắt đầu lập trường của chính phủ tôi về vấn đề quan tâm đến an ninh và thịnh vượng trong khu vực Biển Đông.
Tôi muốn nói ngắn gọn quan điểm của chúng tôi về vấn đề này. Hoa Kỳ, như mọi quốc gia, có lợi ích quốc gia trong việc tự do đi lại, tự do đi vào vùng biển chung của châu Á, và tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển Đông. Chúng tôi chia sẻ những lợi ích không chỉ với các thành viên ASEAN hoặc những người tham dự Diễn đàn Khu vực ASEAN, mà còn với các quốc gia gần biển khác và cộng đồng quốc tế rộng hơn.
Hoa Kỳ hỗ trợ quá trình cộng tác ngoại giao của tất cả các bên tranh chấp để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ khác nhau mà không cần cưỡng chế. Chúng tôi phản đối việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực của bất kỳ nước tranh chấp nào. Trong khi Hoa Kỳ không đứng về bên nào trong các tranh chấp lãnh thổ về các vùng đất, đảo, đá…(land features) trên Biển Đông, chúng tôi tin rằng các bên tranh chấp nên theo đuổi việc tranh chấp lãnh thổ của mình và các quyền đối với không gian biển theo quy định của Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển. Phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế, việc đòi chủ quyền chính đáng đối với không gian biển trên Biển Đông nên chỉ bắt nguồn từ việc đòi chủ quyền hợp pháp với các đảo, đất, đá...trên biển (*).
Hoa Kỳ ủng hộ Tuyên bố Ứng xử của các bên trên Biển Đông của ASEAN - Trung Quốc năm 2002. Chúng tôi khuyến khích các bên đạt được sự thoả thuận quy tắc ứng xử hoàn toàn. Hoa Kỳ chuẩn bị tạo điều kiện cho các sáng kiến và các biện pháp xây dựng lòng tin phù hợp với tuyên bố. Bởi vì tất cả các bên tranh chấp và cộng đồng quốc tế rộng hơn đều quan tâm về việc thương mại không bị ngăn cản để tiến hành trong điều kiện hợp pháp. Tôn trọng lợi ích của cộng đồng quốc tế và những nỗ lực có trách nhiệm để giải quyết những khiếu nại chưa được giải quyết và giúp tạo ra các điều kiện để giải quyết các tranh chấp và giảm căng thẳng trong khu vực. Để tôi nói thêm một điểm về Công ước [Liên Hiệp Quốc] về Luật biển. Nó được sự ủng hộ mạnh mẽ từ hai đảng tại Hoa Kỳ và là một trong những ưu tiên ngoại giao của chúng tôi trong năm kế tiếp là bảo đảm việc phê chuẩn ở Thượng viện.
Vì vậy, đây là một chương trình nghị sự rất đầy đủ với các cuộc thảo luận các vấn đề quan trọng thẳng thắn và hiệu quả. Chủ đề trong năm nay của Bộ là: chuyển suy nghĩ sang hành động. Và tôi nghĩ đó là bản tóm tắt hoàn hảo về những gì chúng tôi đang cố gắng để làm thông qua các thể chế này. Chúng ta có cùng suy nghĩ và các mục tiêu đầy tham vọng. Nhưng như mọi khi, thước đo sự thành công chính xác nhất của chúng tôi sẽ là, chúng ta chuyển từ suy nghĩ sang hành động tốt như thế nào bằng sự tiến triển vững chắc về các mục tiêu của chúng ta cho một tương lai tốt hơn. Và do đó, đã đến lúc chúng ta hành động và cho tôi nhận một số câu hỏi của quý vị.


(Phần kế tiếp là các phóng viên đặt câu hỏi cho bà Hillary Clinton)


--------
(*) Phần này có lẽ bà Hillary Clinton ám chỉ Trung Quốc, việc đòi hơn 80% diện tích Biển Đông là không chính đáng (legitimate).


Quỹ Nghiên cứu Biển Đông


Remarks at Press Availability
http://www.state.gov/secretary/rm/2010/07/145095.htm


Hillary Rodham Clinton
Secretary of State
National Convention Center
Hanoi, Vietnam
July 23, 2010


SECRETARY CLINTON: Well good afternoon everyone. Today I complete my fifth trip to Asia since becoming Secretary of State. Yesterday, I arrived in Vietnam and I was honored to be here to help celebrate the 15th anniversary of the normalization of our diplomatic relations. The day before, I was in Seoul, my third visit to Korea as Secretary. Together, Secretary Gates and I have sent the strong message that 60 years after the outbreak of the Korean War the U.S.-Korea alliance is strong, helping to underwrite peace and security and create the conditions for economic growth throughout the region.
And now I’ve just completed two days of intensive consultations with my ASEAN colleagues and with the other partners who have come here to pursue a common endeavor: strengthening security, prosperity, and opportunity across Asia.
Yesterday, I participated in the annual U.S.-ASEAN post-ministerial meeting where we discussed my country’s deepening engagement with Southeast Asia and the opportunities we see ahead on so many fronts – from expanded trade investment, to greater cooperation on peace and security, to joint efforts to confront transnational challenges, like climate change, human trafficking, nuclear proliferation, and so much else.
And today I’ve joined the annual meeting of the larger ASEAN regional forum to continue and expand our discussions. As I stated when I attended this forum last summer in Thailand, the Obama Administration is committed to broad, deep, and sustained engagement in Asia. And as I discussed in a speech in Hawaii last fall, we are focused on helping strengthen the institutional architecture of the Asia Pacific.
Over the last 18 months we have signed the Treaty of Amity and Cooperation, announced our intention to open a mission and name an ambassador to ASEAN in Jakarta, and held the first U.S.-ASEAN summit. And we have pursued new sub-regional efforts like our new Mekong Delta partnership.
To build on that progress I conveyed to my colleagues our interest in engaging with the East Asia Summit as it plays an increasing role in the challenges of our time. And I announced that President Obama had asked me to represent the United States in an appropriate capacity at this year’s EAS in Hanoi to continue a process of consultations with a view toward full American participation at the presidential level in 2011. Through these consultations we will be working with EAS members to encourage its development into a foundational security and political institution for Asia in this century. The President also looks forward to hosting the second U.S.-ASEAN leaders meeting in the United States this coming autumn.
Today we discussed a number of urgent challenges including North Korea and Burma. I encouraged our partners and allies to continue to implement fully and transparently UN Security Council Resolution 1874, and to press North Korea to live up to its international obligations. I also urged Burma to put in place the necessary conditions for credible elections including releasing all political prisoners, especially Aung San Suu Kyi, respecting basic human rights, and ceasing attacks against their ethnic minorities. And as I said in our meetings today, it is critical that Burma hear from its neighbors about the need to abide by its commitments, under the nuclear non-proliferation treaty, to fulfill its IAEA safeguards obligations and complies with Resolutions 1874 and 1718.
We also discussed a number of other important topics: climate change, trading and economic integration, democracy and human rights. And I took the opportunity along with a number of my ASEAN and ASEAN Regional Forum colleagues to set forth my government’s position on an issue that implicates the security and prosperity of the region, the South China Sea.
I’d like to briefly outline our perspective on this issue. The United States, like every nation, has a national interest in freedom of navigation, open access to Asia’s maritime commons, and respect for international law in the South China Sea. We share these interests not only with ASEAN members or ASEAN Regional Forum participants, but with other maritime nations and the broader international community.
The United States supports a collaborative diplomatic process by all claimants for resolving the various territorial disputes without coercion. We oppose the use or threat of force by any claimant. While the United States does not take sides on the competing territorial disputes over land features in the South China Sea, we believe claimants should pursue their territorial claims and the company and rights to maritime space in accordance with the UN convention on the law of the sea. Consistent with customary international law, legitimate claims to maritime space in the South China Sea should be derived solely from legitimate claims to land features.
The U.S. supports the 2002 ASEAN-China declaration on the conduct of parties in the South China Sea. We encourage the parties to reach agreement on a full code of conduct. The U.S. is prepared to facilitate initiatives and confidence building measures consistent with the declaration. Because it is in the interest of all claimants and the broader international community for unimpeded commerce to proceed under lawful conditions. Respect for the interests of the international community and responsible efforts to address these unresolved claims and help create the conditions for resolution of the disputes and a lowering of regional tensions. Let me add one more point with respect to the Law of the Sea Convention. It has strong bipartisan support in the United States, and one of our diplomatic priorities over the course of the next year is to secure its ratification in the Senate.
So this was a very full agenda with candid and productive discussions of critical issues. The theme of this year’s ministerial was: Turning Vision into Action. And I think that’s the perfect summary of what we’re trying to do through these institutions. We have a shared vision and ambitious goals. But as always, the truest measure of our success will be at how well we turn our vision into action by making concrete consistent progress for our goals for a better future. And so it is now time for us to get to work and for me to take some of your questions.
MODERATOR: We have time for a few questions. The first is from Ms. Ha from VTV.
QUESTION: Thank you, Madam Hillary Clinton. My question is that what is your comments about how the South China Sea or East Sea issue was brought about in the AF this year, and into the – the way how to deal with this issue (inaudible).
SECRETARY CLINTON: Thank you. I think that 12 participants raised the South China Sea and general maritime navigation and claim issues in our discussion. Because if you look at a map of this region, there are many countries that are increasing their trade, their commercial maritime traffic. There is a lot of activity. This is some of the busiest sea lanes in the world, and there’s a concern that we all abide by the international rules in order to determine how to proceed and certainly, the 12 participants including the United States, that raise this issue would want to see the application of the principles agreed to previously by ASEAN, the existing international laws and regulations and the custom of how all these countries in this region can share this common space of the oceans. And I thought it was a very productive conversation.
MODERATOR: The next question is from Mark Landler of the New York Times.
QUESTION: Thank you, Madam Secretary. I wonder whether I could ask you to take a step back at the end of this trip. In the past, we – you’ve been in countries that represent American wars past, present, and one hopes not future. But I’m wondering as you go home, whether there’s a common thread or a lesson from Vietnam, South Korea that can be applied to our current and very difficult campaign in Afghanistan.
SECRETARY CLINTON: Well, I hope that some time in the future, Afghanistan is doing as well as South Korea and Vietnam are. The extraordinary economic progress, the strengthening of institutions that we’ve seen over the last 60 years in South Korea, and certainly the last 35 years in Vietnam, are encouraging to anyone who hopes for the best for Afghanistan. But I think you also recognize that this is hard work, that it takes a lot of patience and persistence.
The history of democracy and prosperity in South Korea was one that was very hard fought, not only the Korean War, but years and years of trying to overcome the difficulties of establishing democratic institutions that would be strong enough to really get rooted in society, of overcoming all kinds of challenges. And as I said yesterday in a speech that I delivered here in Hanoi, one of the lessons that are very important for all of us is to see how 15 years after the normalization of relations between the United States and Vietnam, 35 years after the end of a war, the partnership and cooperation between the United States and Vietnam is increasing by the day.
I travel all over the world as some of you travel with me now. And one of the biggest challenges I face as Secretary of State are the many places in the world today that cannot overcome their own past, cannot put aside the pain and the anguish of the conflicts and disappointments, the oppression, and despair that they experienced or their grandparents experienced.
So both South Korea and Vietnam are very important models for other countries around the world. And I certainly expressed, in Afghanistan, my hope that Afghanistan will be able to build a stronger government, deliver results for the people, demonstrate that democracy can work, provide an inclusive society with a growing economy, and overcome its legacy of war and conflict as well.
MODERATOR: And our last question from Elise Labott of CNN.
QUESTION: Thank you, Madam Secretary. You talked today a little bit about North Korea’s – your concern about North Korea’s nuclear program and today the North Korean, threaten, I quote, “physical response” to your planned exercises with South Korea. Are you worried about an escalation? And as you talk about North Korea’s nuclear ambitions, you’ve raised concern today about Burma’s nuclear ambitions and it’s trying to seek a nuclear weapon. You have some very protracted negotiations with South Korea over civil nuclear programs. Are you concerned that all of this activity will spark an arms race in Asia where other states feel that they’re going to have to develop a nuclear program to keep up? Thank you.
SECRETARY CLINTON: Well, Elise, the threat of a nuclear arms race is one of the greatest dangers facing the world today. As I said in my participation during the ASEAN Regional Forum, we regret and condemn the actions of North Korea, the belligerence, the provocation, the sinking of the South Korean ship Cheonan, the destabilizing effect that that has in Northeast Asia, the proliferation of both conventional arms and nuclear technical knowhow. Because we do consider it to be a very serious problem, not only in Northeast Asia, but unfortunately, consequences throughout the rest of the world.
Yet at the same time, and I have said repeatedly and said again today, the door remains open for North Korea. If they are willing to commit themselves as they did five years ago in 2005 to the irreversible denuclearization that would make the entire Korean Peninsula, not just the South, but the North as well free of nuclear weapons, we are willing to meet with them. We’re willing to negotiate, to move toward normal relations, economic assistance. We want to help the people of North Korea. We would love for them to have the same opportunities that the people of South Korea have been able to enjoy during the last 60 years.
So it is distressing when North Korea continues its threats and causes so much anxiety among its neighbors and the larger region, but we will demonstrate once again through our military exercises as we did when Bob Gates and I visited in Seoul together two days ago – that the United States stands in firm support of the defense of South Korea and we will continue to do so.
But we of course would welcome the day when there is peace on the Peninsula and when the leaders of North Korea are less concerned about making threats and more concerned about making opportunities for all of the North Korean men, women, and children. I would very much like to see that come to pass and, as I say, we stand ready to do so. But under these circumstances, it appears unlikely that we’ll be able to make any progress in the near term.