Thời Sự
Quân Sự, Chính Trị và Tin Tức Cập Nhật Hóa Liên Quan Đến Hoa Kỳ và Đông Nam Á
Saturday, October 16, 2010
Monday, October 11, 2010
Thursday, September 2, 2010
Mỹ sẽ bán đứng Việt Nam tại Biển Đông?
Những diễn biến ngọai giao gần đây đã gây ra một luồng dư luận sôi nổi là phải chăng Mỹ đang muốn liên minh với Việt Nam để đối phó với một nước Trung Hoa đang mưu đồ bá quyền, mà trường hợp trước mắt là những lấn ép lãnh hải tại Biển Đông?
Có ý kiến cho rằng Việt Nam nên nắm lấy cơ hội nghìn năm một thuở này mà duy tân như nước Nhật đã từng làm.
Dĩ nhiên là, trong một bàn cờ rối như ở Biển Đông thì có một nước cờ mà đi cũng là một niềm vui, dù cho rằng tòan thể thế cờ hình như vẫn còn là một thế kẹt.
Nhưng câu hỏi được đặt ra là, đây có phải là khởi đầu của một thế cờ mới chăng?
Biển Đông là một bàn cờ có nhiều tay chơi cho nên diễn biến ra sao còn tùy thuộc vào não trạng của từng tay chơi một.
Não trạng của con cọp Trung Hoa khổng lồ thì ai cũng rõ biết, đó là nó đang muốn sổ lồng, nó muốn cả vùng Biển Đông là cái ao tắm của nó.
Não trạng của các nước nhỏ quanh vùng thì rõ ràng là "thủ". Giống như một anh chàng tay không bỗng thấy mình đứng trước một con cọp dữ thì vũ khí chính chỉ là tiếng hét mà thôi.
Còn não trạng của "con cọp giấy" Hoa Kỳ (tên mà Mao đặt cho Mỹ năm 1956) là gì?
Vì đây là một tay chơi vừa nhập cuộc cho nên việc tìm hiểu anh ta cho rõ ràng là rất cần thiết.
Nếu có thể lấy lịch sử mà đóan trước tương lai, thì nước Mỹ là một nước luôn luôn hành động và trung thành theo đuổi một tư tưởng "thịnh thời". Những tư tưởng này có nhiều hình thức và tên gọi khác nhau (như lý thuyết, chương trình, sách lược) nhưng chung qui thì đó là một lọai đồng thuận phát sinh ra bởi một môi trường tự do tư tưởng, lưỡng đảng và chính sách minh bạch mà ra.
Thử nhìn lại một số tư tưởng "thịnh thời" gần gũi với chúng ta nhất.
Sau thế chiến thứ hai, người Mỹ tin rằng để chống lại chủ thuyết Cộng Sản đang phát triển mạnh trong các nước bị tàn phá thì điều cần phải làm là tái thiết. Do đó họ đã bỏ ra 44.3 tỷ Mỹ Kim từ năm 1945 cho đến 1953 để phục hồi nền kinh tế Âu Châu. Những chương trình viện trợ đó thường được gọi chung là Marshall Plan (Truman, 1948).
Marshall Plan không những chặn đứng Cộng Sản ở Châu Âu mà còn đưa Tây Âu đến một thời cực thịnh chưa từng thấy, và đó cũng là lý do gián tiếp của sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết sau này.
Bên phía Á Châu thì người Mỹ tin rằng với những quốc gia nhược tiểu nhưng có nhiều liên hệ về văn hóa lịch sử như Trung Hoa, Việt Nam,Thái Lan và Mã Lai, thì một quốc gia bị đổ sẽ kéo theo sự sụp đổ dính chùm của các quốc gia khác. Dwight D. Eisenhower đặt tên lập luận đó là lý thuyết Domino (Domino Theory, 1954.) vì nó giống như một hàng domino, một con cờ bị lật sẽ dồn những con cờ khác lật theo.
Vì vậy suốt từ năm 1950 cho tới 1980 người Mỹ đã không tiếc tiền đổ vào miền Đông Nam Á để be bờ, ngăn chặn. Những nỗ lực này thất bại vì Trung Hoa và bán đảo Ấn Trung (trong đó có Việt Nam) đã bị mất, nhưng đổi lại các quốc gia khác trong vùng như Thái Lan, Mã lai, Ấn Độ và Indonesia đã có đủ thời gian để tự cải tiến và vượt qua cái hấp dẫn của chủ nghĩa Cộng Sản.
Sự kiện chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ năm 1975 tuy bị coi là một thất bại của lý thuyết Domino nhưng thực ra nó còn là hệ lụy của một chủ thuyết mới ở Mỹ. Lúc này người Mỹ đã nhận ra rằng cả hai bên Tư Bản và Cộng Sản đã phát triển vũ khí hạt nhân nhiều đến nỗi, ngay cả lực lượng trừ bị lọai thứ ba cũng đủ sức tiêu diệt tòan thể nhân lọai nhiều lấn (nghĩa là nếu một nước bị tấn công bất ngờ và lực lượng nguyên tử lọai tấn công bị tiêu diệt tới hai lần liên tiếp thì lực lượng nguyên tử lọai thứ ba cũng vẫn có thể tự sát cả thế giới.) Trong một bối cảnh như thế thì chiến thắng là vô nghĩa và do đó con đường phải đi là hòa hõan với nhau (Detente), cuộc chiến về quân sự đã lỗi thời và chiến tuyến mới chính là kinh tế. Từ năm 1969 cho tới 1977 Nixon và Kissinger đã làm hòa với Nga, làm bạn với Tàu để mở rộng thị trường trong một chính sách hòa hõan và xáp lại gần nhau (Detente and Rapprochement). Việt nam là một con cờ lỗ lã trong nước cờ kinh tế này, và vì thế mà bỏ đi càng sớm thì càng tốt.
Từ năm 1981 cho đến 1989 sự phục hồi kinh tế của Hoa Kỳ đã vững mạnh đến nỗi Reagan có thể chủ trương "Hòa Bình trong thế mạnh" (peace through strength). Ông không để cho Liên Bang Xô Viết rảnh tay lo việc kinh tế nữa bằng cách giáp công ba mặt: (1) Không bán cho LBXV những kỹ thuật cao, (2) cạnh tranh hàng hóa để mặt hàng LBXV mất giá và (3) tăng cường chi phí quốc phòng làm cho LBXV phải chạy đua. Trong những năm sau cùng của cuộc chiến tranh lạnh, Moscow đã phải chi tới 25% GDP (tổng sản lượng quốc gia) cho kinh phí quân sự mà vẫn không theo kịp Mỹ trong khi tòan dân đói khát phải xếp hàng cả nửa ngày để mua được một mẩu bánh mì. Cuộc chiến đã kết thúc không một tiếng súng trong thời Tổng Thống Bush (cha).
Từ đó cho đến nay, Những tin tưởng của Hoa Kỳ vẫn phản ảnh những ưu tiên đã có từ thời Nixon và Kissinger. Nghĩa là vẫn tìm thị trường phát triển bằng cách kết thân với Trung Quốc. Nhưng với sự chỗi dậy của Nga và sự phát triền hải quân của Tàu mới đây, nhiều lý thuyết gia Mỹ đã bắt đầu đặt lại phương trình.
Một lý thuyết gia được nói tới nhiều là George Friedman. Trên tạp chí hàng đầu của giới trí thức Mỹ, khi người ta đăng bài của Tổng Thống Obama về những kỳ vọng của 40 năm sắp tới, ngay bên cạnh người ta cũng đăng ý kiến của ông về viễn ảnh thế giới 40 năm sau (The Smithsonian, special issue, Our 40th Anniversary 1970-2010.)
Có thể gọi ông là một quân sư vì ông là chủ tịch của một hãng tình báo tư, hãng STRATFOR. Hãng của ông cung cấp tình báo cho các chính phủ và các cơ sở thương mãi. Đây là hãng tư nhân duy nhất được nối mạng với hệ thống chiến tranh giả định của chính phủ HK (Joint Theater Level Simulation by the Joint Warfighting Center.)
Không rõ ông có tiếng nói gì trong những chính sách của Obama hay không, nhưng là một tiến sĩ chính trị tại Cornell University, ông đã viết nhiều sách tiên đóan về tương lai thế giới như The Next 100 Years, America's Secret War, The Intelligence Edge, and The Future of War.
Ông là người duy nhất trong các tác giả hiện đại đã tính tóan một vấn đề dựa trên các dữ liệu của cả hai yếu tố kinh tế và quân sự.
Những tiên đóan của ông có khi lạ lùng khó tin, nhưng quan trọng không phải là ở sự việc có xảy ra hay không, hoặc sẽ xảy ra đúng ngày giờ không, mà là những yếu tố cấu tạo ra sự việc có tính cách thuyết phục hay không.
Ông tiên đóan:
Năm 2020 Nước Tàu sẽ phân chia.
Năm 2050 Thế chiến thứ 3 sẽ xảy ra giữa các liệt cường là Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Lan và Nhật.
Tại sao Ba Lan (nền Kinh Tế thứ 21 trên thế giới) sẽ trở thành liệt cường trong vòng 40 năm thì đó là việc cần phải chờ xem và Friedman cũng không đưa ra nhiều chứng cớ rõ ràng. Tuy nhiên ông nói Ba Lan vì ở giữa hai gọng kìm Đức và Nga cho nên sẽ luôn luôn là đồng minh trung thành của Mỹ.
Thổ Nhĩ Kỳ (nền Kinh Tế thứ 17) là nước tiền tiến nhất của khối Hồi Giáo, có quân đội hùng mạnh nhất Châu Âu, đang là một thế lực hải quân ở Địa Trung Hải, sẽ có thể trở thành trung tâm của khối Hồi Giáo và sẽ cần một lực lượng hải quân rộng hơn để nối liền các quốc gia hồi giáo quanh vùng Ấn Độ Dương.
Về việc nước Tầu, Friedman cho rằng Trung Hoa sẽ không thể trở thành một đe dọa cho Mỹ vì trong sân nhà của Trung Hoa sẵn có một tỷ người đang đói rách, khác chủng tộc, và sống trong các vùng khô cằn. Một quốc gia với vóc dáng kinh tế và quân sự chưa vững vàng như vậy thì việc lo nội trị đã đủ là một vấn đề rồi. Chưa kể đó là những yếu huyệt sẽ quật ngã Trung Hoa nếu chiến tranh tòan diện xảy ra, cho nên Trung Hoa sẽ tránh những đụng độ lớn.
Nước Nhật là quốc gia có nền kinh tế ngang ngửa với Trung Hoa, nhưng dân Nhật đòan kết, nền kinh tế và quân sự vững bền. Con đường sống của Nhật là hàng hải cho nên họ ưu tiên phát triển hải quân và đang đứng đầu Á Châu. Mỗi năm chi phí quốc phòng của Nhật là 45.8 tỷ, chỉ sau Hoa Kỳ và Anh Quốc, to gấp rưỡi chi phí của Tẩu (29.9 tỷ). Quan trọng hơn, kinh phí đó chỉ là 1% GDP của họ, có nghĩa là họ có thể tăng gấp 3 lực lượng hải quân một cách dễ dàng (Mỹ 3.6% GDP kể chung các binh chủng.)
Friedman không đề cập nhiều đến Ấn Độ và Ba Tây. Có thể ông cho rằng Ấn Độ sẽ không bao giờ thách thức Mỹ, hoặc như nhiều nhà phân tích khác (i.e Joel Kotkin) thì Ấn Độ sẽ không tiến xa chỉ vì xã hội Ấn luôn luôn phân hóa. Còn Ba Tây thì cho đến nay vẫn chưa là một hải lực quan trọng.
Friedman tiên đóan Thổ Nhĩ Kỳ và Nhật sẽ thách thức sức mạnh hải quân của Hoa Kỳ và cuộc chiến sẽ khởi đầu bằng những đụng độ trên không gian để tiêu diệt vệ tinh viễn thông điều khiển tầu bè của nhau.
Như đã nói ở trên, những tiên đóan của Friedman lạ lùng và khó tin, nhưng quan trọng không phải là ở sự việc có xảy ra hay không mà là những chứng cớ. Về điểm này thì hầu như các bình luận gia của Mỹ đồng ý với nhận xét của Friedman về hai nước Nhật và Tầu, ít ra là chưa có nhiều ý kiến đối lập.
Thế kỷ 21 cho thấy tầm quan trọng về kinh tế của khu vực Thái Bình Dương, số lượng giao thương đã vượt qua Đại Tây Dương.
Hoa Kỳ là cường quốc duy nhất tiếp cận với cả hai đại dương cùng một lúc, và là cường quốc duy nhất kiểm sóat tất cả các mặt biển trên trái đất. Sức mạnh kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ tùy thuộc vào Hải Quân. Cho nên sẽ không ai được thách thức Hải Quân của Hoa Kỳ và Hoa Kỳ sẽ kềm giữ những ai có tham vọng phát triển Hải Quân để trở thành một mối lo cho họ.
Hoa Kỳ trong một tương lai gần sẽ vẫn là vô địch về kinh tế và quân sự. Trong vòng 40 năm tới, dân số Hoa Kỳ sẽ trẻ lên 42%, trong khi Trung Hoa già đi 10%, Âu Châu già đi 25% Nam Hàn già đi 30% và Nhật 40% (Theo ước tính cùa sở kiểm tra dân số Hoa Kỳ.) Sự trẻ trung hóa đó cộng với một nền giáo dục thúc đẩy công nghệ cao (các trường Đại Học Mỹ đào tạo nhiều kỹ sư hơn Ấn Độ và Nhật xét theo cả hai hai phương diện tỳ số và số lượng,) cộng với yếu tố đất rộng, nhiều tài nguyên nội địa, là những lý do giúp Hoa Kỳ duy trì vị thế độc tôn này.
Nếu giới quân sự Mỹ có ý kiến tương đồng với Friedman về những thế lực có thể thách thức sức mạnh của Mỹ trong tương lai thì quốc gia mà Mỹ lưu tâm trong vùng Thái Bình Dương là Nhật chứ không phải là Trung Hoa. Và lý do Mỹ phải bảo vệ đường biển tại Biển Đông là có chủ ý không cho Nhật có cái lý do là cần phát triển hải quân thêm nữa để bảo vệ lấy mình.
Một khi Trung Quốc nhượng bộ quyền hải lưu của Nhật và Mỹ vừa đủ, thì thái độ của Hoa Kỳ sẽ lập tức đổi chiều. Mỹ vẫn coi trọng thị trường rộng lớn của Trung Hoa và vẫn coi Trung Hoa là không nguy hiểm.
Việt Nam trở nên quan trọng với Mỹ chỉ vì Trung Quốc đã đi quá đà cần phải điều chỉnh lại. Nhưng sự quan trọng này là tạm bợ và không thỏai mái vì kinh nghiệm đã làm cho Mỹ không tin vào Việt Nam được. Sự liên kết hay tương trợ này chỉ có thể kéo dài nếu Việt Nam được sự hậu thuẫn chính trị trong nước Mỹ và, tuy chưa đủ khả năng kiểm sóat Biển Đông thì cũng phải có khả năng phá rối.
Nhìn vào thế cờ Biển Đông, cho đến khi Việt Nam thực sự là một tay chơi có bản lĩnh và căn cơ, Việt nam vẫn chỉ là một nước cờ người khác tạm dùng.
Và nếu thực sự như vậy, thì những lạc quan của người Việt khắp nơi vẫn giống như những giọt bọt bèo mau vỡ mà thôi.
Trần Mạnh Trác
Thursday, August 19, 2010
The U.S. Troop Leaving Iraq / Letter from Obama
Friday, August 13, 2010
“NƯỚC MỸ CỦA TÔI” VÀ CUỘC TẤN CÔNG THỨ HAI
Tối 20.9.2001, trong thông điệp đặc biệt đọc trước lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ về cuộc khủng bố tấn công chín ngày trước, Tổng thống George W. Bush nói:
“Ngày 11 tháng 9, kẻ thù của tự do đã gây chiến chống lại đất nước chúng ta. Người Mỹ đã biết những cuộc chiến tranh, nhưng trong 136 năm qua, chúng ta đã lâm chiến trên lãnh thổ nước ngoài, trừ một lần vào ngày chủ nhật năm 1941.
“Người Mỹ đã biết đến những tổn thất của chiến tranh, nhưng không phải ở trung tâm một thành phố vĩ đại vào một buổi sáng an bình. Người Mỹ đã biết đến những cuộc tấn công bất ngờ, nhưng trước đây chưa từng có cuộc tấn công nào nhắm vào hàng ngàn thường dân. Tất cả những điều này đã đến với chúng ta chỉ trong một ngày, và màn đêm đã buông xuống trên một thế giới khác: một thế giới mà tự do bị tấn công.
“Tối nay, người Mỹ có nhiều câu hỏi: Ai đã tấn công đất nước chúng ta?”
Một tuần lễ sau, người Mỹ đã có câu trả lời: Kẻ đã lén lút tấn công nước Mỹ ngày 11.9.2001 là Osama Bin Laden và tổ chức khủng bố Hồi giáo quá khích Al Qaeda của hắn đặt căn cứ tại Afghanistan được chính quyền Taliban dung dưỡng.
Mấy tháng sau, quân đội Mỹ mở chiến dịch tấn công Afghanistan, lật đổ chế độ Taliban và truy lùng Osama Bin Laden. Nay, sau tám năm chiến tranh hao người tốn của, người Mỹ vẫn chưa bắt hay giết được Osama Bin Laden. Hắn vẫn còn lẩn trốn trong vùng núi non hiểm trở ở biên giới Pakistan và loạn quân Taliban vẫn tiếp tục chiến đấu, kiểm soát nhiều khu vực trên lãnh thổ Afghanistan. Không mấy ai tin rằng tình hình nước này sẽ ổn định khi quân Mỹ ra đi vào tháng 7.2011 theo kế hoạch được loan báo trước của Tổng thống Obama.
Trong khi đó, Al Qaeda vẫn tiếp tục âm mưu tấn công nước Mỹ bằng chiến thuật khủng bố mà sự thất bại chỉ là nhờ may mắn của người Mỹ - từ vụ toan làm nổ một chuyến bay thương mại với hơn 200 hành khách trên bầu trời Denver vào ngày lễ Giáng sinh 2009 đến một chiếc xe chứa đầy chất nổ được phát hiện giữa thành phố New York vài tháng sau.
Và nay, thành phố New York lại đang là mục tiêu của một cuộc tấn công khác, dưới một hình thức khác, tuy không có người chết và nhà cửa sụp đổ, nhưng không kém hung hiểm. Ngày 3.8 vừa qua, Hội đồng Bảo quản Di tích (Landmarks Preservation Commission) TP New York đã biểu quyết với số phiếu tuyệt đối 9-0 bác bỏ tính cách di tích lịch sử của một cao ốc được xây từ 150 năm trước toạ lạc tai số 45-47 Park St., dọn đường cho dự án xây dựng một thánh đường và trung tâm văn hoá Hồi giáo tại đây.
Quyết định này đã châm ngòi cho một cuộc tranh luận gay gắt giữa phe ủng hộ và phe chống đối dự án này. Trung tâm của cuộc tranh luận là ngôi thánh đường Hồi giáo dự định xây cất chỉ cách “Ground zero”, khu đất của Trung tâm Mâu dịch Thế giới đã sụp đổ trong cuộc tấn công ngày 11.9.2001, có 600 feet (khoảng 200 mét).
Trong khi hơn 60 phần trăm cư dân thành phố New York chống đối dự án này thì người ủng hộ nhiệt tình nhất lại là ông Thị trưởng Michael R. Bloomberg. Ngày 3.8, trước mặt những lãnh tụ đại diện cho nhiều tôn giáo, với Tượng Nữ Thần Tự Do ở phiá sau lưng, Ông Bloomberg nói với giọng khích động hiếm thấy:
“Khi chạy tới hai toà cao ốc đang bốc cháy, không ai trong những người tiếp cứu hỏi: ‘Anh cầu nguyện Thượng đế nào? Đức tin của anh là gì?’ Chúng ta không thể vinh danh những người đã hy sinh mạng sống anh hùng ấy bằng cách khước từ chính những quyền hiến định mà họ đã chết để bảo vệ… Tôi tin rằng đây là một trắc nghiệm cũng quan trọng như sự phân cách giữa giáo hội và quốc gia, và điều hết sức quan trọng là chúng ta quyết định đúng.”
Những lời lẽ thật hay đẹp. Và, Ông Bloomberg, một tỉ phú đã đổi từ đảng viên Cộng Hoà sang Độc Lập và đã làm thị tưởng New York 8 năm rưỡi, nói thêm: “Toà nhà này là tài sản của tư nhân và sở hữu chủ có quyền dùng vào việc thờ cúng. Chính quyền không có bất cứ quyền năng nào để chối từ quyền ấy.”
Nghe thật chính đáng và đầy tinh thần thượng tôn hiến pháp. Nhưng những người chống đối lại có cái nhìn khác, và có lý do cũng rất chính đáng, để không coi đây là một thánh đường bình thường như những thánh đường khác:
- Tại sao lại chọn địa điểm quá gần “ground zero”?
- Thầy tu (Imam) Feisal Abdul Rauf, người đứng đầu dự án, có tư tưởng cực đoan.
- Kinh phí hơn 100 triệu Mỹ kim từ đâu mà ra?
“Ground zero” không phải chỉ là nơi Trung tâm Mậu dịch Thế giới đã sụp đổ, hay chỉ đơn giản là nơi đã diễn ra một tội ác trọng đại. Hơn thế, đó là một chiến địa, là nơi đã thấm máu của ba ngàn con người, hầu hết là người Mỹ, đã bị tàn sát vào ngày định mệnh ấy. Đó là một đền thờ của quốc gia, cũng như Trân Châu Cảng, để tưởng nhớ những nạn nhân của tội ác do Hồi giáo cực đoan gây ra trên đất Mỹ.
Những người chống đối nói rằng cuộc tấn công ngày 11.9 do Hồi giáo cực đoan tiến hành nhân danh cuộc thánh chiến chống lại phương Tây, và đã dùng kinh Koran cùng những nguyên tắc Hồi giáo để biện minh cho hành động giết người. Mục tiêu của chúng là đem thánh chiến vào nước Mỹ để tung ra một cuộc đụng độ của hai nền văn minh, cùng lúc đang diễn ra trên khắp thể giới để áp đặt một đế quốc Hồi giáo dựa trên giáo luật Shariah. “Ground Zero” chính là nơi Hồi giáo cực đoan đã chọn để đưa chiến tranh vào nước Mỹ.
Vì vậy, xây dựng một thánh đường Hồi giáo tại đây là một thách thức về tôn giáo, là cố ý tát vào mặt những nạn nhân, gia đình họ, và toàn thể dân Mỹ. Vì vậy mà những người chủ trương đã không lùi bước trước những chống đối và cũng không chấp nhận một khu đất khác xa hơn. Họ biết rằng toà nhà cao 13 tầng này, gồm một giáo đường và một trung tâm văn hoá Hồi giáo với một hội trường 500 chỗ ngồi, sẽ tạo một bóng đen khổng lồ áp đảo “ground zero”, được dùng như một biểu tượng của Hồi giáo chinh phục nước Mỹ. Nếu Hồi giáo có thể xây thánh đường tại chiến địa 11 tháng 9, họ có thể áp đặt ý muốn của họ bất cứ tại đâu.
Thầy tu Feisal Abdul Rauf, linh hồn của dự án xây thánh đường cạnh “ground zero”, bị cáo buộc là một người Hồi giáo chiến đấu không hối cải, một người đạo Hồi phiêu lưu. Ông ta từng công khai tuyên bố rằng chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ là một phụ tùng của cuộc tấn công ngày 11 tháng 9. Nói cách khác, theo cái nhìn của Thầy tu Rauf, người Mỹ đã tự đem sự tàn ác đến cho mình. Ông ta kêu gọi du nhập luật Shariah vào toà án Mỹ. Vắn tắt, ông ta công khai tìm cách Hồi giáo hoá nước Mỹ.
Thầy tu Rauf cũng bị tố là một người Hồi giáo đạo đức giả. Ông ta dùng Hiếp pháp Hoa Kỳ để đòi được tự do tôn giáo trong khi hô hào áp dụng luật Shariah, theo đó hoà trộn giáo hội và quốc gia, và ức chế tôn giáo khác. Người Hồi giáo đang sử dụng tự do của người Mỹ trong mưu toan tiêu diệt tự do của người Mỹ.
Rauf không chịu tiết lộ nguồn gốc của số tiền hơn 100 triệu Mỹ kim để thực hiện dư án và chính quyền Mỹ cũng không bận tâm tìm hiểu xuất xứ của số tiền không nhỏ ấy. Hơn thế nữa, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ coi Rauf là một “nhà tu Hồi giáo ôn hoà”, và còn dùng tiền của dân đóng thuế để cử Rauf “công du” vùng Trung Đông với sứ mạng tạo “sự hiểu biết lớn hơn” về đạo Hồi và các cộng đồng Hồi giáo ở Mỹ. Dĩ nhiên ông ta sẽ không bỏ lỡ cơ hội để kiếm tiền, gây quỹ xây dựng ngôi thánh đường Hồi giáo ngay cạnh “ground zero”, nơi được những người chống đối gọi là khu “đất thiêng liêng”.
Tổ chức ACLJ (American Center for Law & Justice) đã nạp đơn kiện Hội đồng Bảo trì Di tích về quyết định bác khước tính cách di tích lịch sử của toà nhà số 45-47 Park St. với sự hậu thuẫn của một số tổ chức khác, và nhiều nhân vật tên tuổi của hai Đảng Cộng Hoà và Dân Chủ. Cuộc chiến còn tiếp diễn trên bình diện quốc gia.
Nếu coi “ground zero” là chiến địa của cuộc tấn công ngày 11/9.2001 thì nay nó đang bị tấn công lần thứ hai, và nếu lần này Hồi giáo lại thắng nữa, e rằng USA có ngày sẽ biến thành “United States of Arabia” như một nhà bình luận trên tờ Washington Times đã chua cay tiên đoán.
Nhưng, nước Mỹ không phải chỉ bị “Hồi giáo ôn hoà” tấn công trên mặt trận không tiếng súng, cùng lúc với “Hồi giáo cực đoan” âm mưu khủng bố bằng bom đạn. Trong gần hai năm vừa qua, dân Mỹ đã nhận ra những quyền tự do hiến định của mình đang bị mất đi dần dần, từng mảng một, trong lúc chính quyền mỗi ngày một bành trướng để kiểm soát từ kinh tế, tài chính, đến sức khoẻ, y tế, mặc sức chi tiêu với Đảng Dân Chủ kiểm soát cả hai viện Quốc hội và một ông tổng thống Dân Chủ có khuynh hướng “xã hội chủ nghiã”.
Nước Mỹ đang trên đà phá sản và tiến tới xã hội chủ nghiã kiểu Âu Châu bằng những quyền lực không do dân bầu ra cấu kết với nhau (toà án, truyền thông báo chí, các trường đại học, các viên chức bàn giấy, Hollywood, vân vân).
Năm ngoái, trước khi được bán với giá một đô-la (1 USD) cho chồng một nữ dân biểu Đảng Dân Chủ, tạp chí Newsweek đã vui mừng chạy một tựa đề lớn: “WE ARE ALL SOCIALISTS NOW”.
Hai tháng trước, cơ quan thăm dò ý dân của Đảng Dân Chủ (Democracy Corps) hỏi dân Mỹ “how well the term ‘socialist’ fit President Obama”. Kết quả: 55 phần trăm trả lời “well” hay “very well”. Cũng trong tháng ấy, một cuộc thăm dò của Viện Gallup cho thấy 42 phần trăm dân Mỹ tự coi mình là bảo thủ (conservative) - một tỉ lệ cao lịch sử, 35 phần trăm trung dung (moderate), 20 phần trăm tự do cấp tiến (liberal). Ba phần trăm còn lại được xem như thuộc thành phần xã hội, cộng sản, vô chính phủ, phát-xít, quốc xã...
Có những dấu hiệu cho thấy dân Mỹ đã bừng tỉnh sau cơn mê “Thay đổi” (Change) và đang chờ đợi để bước vào phòng phiếu vào tháng 11 tới đây mà kết quả sẽ quyết định tương lai nước Mỹ “của tôi”.
Năm 2001, sau 13 năm trở thành công dân Mỹ trên giấy, lần đầu tiên vào sáng ngày 11 tháng 9, tôi đã có cảm nghĩ rõ ràng “nước Mỹ của tôi” khi nhìn hai toà nhà chọc trời ở New York cháy ngùn ngụt trước khi sụp đổ trên màn ảnh computer tại văn phòng của sở ở Washington DC, và sau đó da trắng, da đen, da vàng đã ôm nhau khóc.
Rồi khi lái xe về nhà và bị kẹt trên đường phố hàng giờ, nhìn cột khói đen lớn bốc lên từ phiá Ngũ-giác-đài bên kia sông Potomac, tôi tưởng như đang sống lại cảnh Tết Mậu Thân ở Sài-Gòn và thầm khấn nguyện: “Xin Thượng đế phù hộ cho nước Mỹ… của tôi”.
Mấy ngày sau, tôi đã chăm chú nghe thông điệp của Tổng thống Bush như một nhà lãnh đạo đất nước của mình, và có thể đã hiểu sâu xa những điều ông nói hơn là nhiều người Mỹ khác, hậu duệ sung sướng của những người di dân trước đây nhiều thế hệ đã tạo lập nên quốc gia vĩ đại tự do này, nhất là khi nghe ông Bush nói về cuộc chiến sắp tới để bảo vệ đời sống tự do:
“Diễn tiến của cuộc chiến đấu này chúng ta chưa biết, nhưng kết quả thì chắc chắn. Tự do và sự sợ hãi, công lý và sự tàn bạo đã luôn luôn ở trong tình trạng chiến tranh với nhau, và chúng ta biết Thượng đế không đứng trung lập giữa những điều ấy.”
Phải là những người đã sống trong sự sợ hãi và tàn bạo, như tôi, mới cảm nhận sâu xa ý nghĩa những lời nói trên đây.
Gần mười năm đã trôi qua, cuộc chiến đấu cho tự do và công lý của đất nước này vẫn còn tiếp tục, có phần còn quyết liệt và hiểm nguy hơn lúc khởi đầu.
Xin Thượng đế phù hộ cho “nước Mỹ của tôi.”
Sơn Tùng
13.8.2010
Sunday, August 8, 2010
Subscribe to:
Posts (Atom)