Thursday, September 2, 2010

Mỹ sẽ bán đứng Việt Nam tại Biển Đông?


Những diễn biến ngọai giao gần đây đã gây ra một luồng dư luận sôi nổi là phải chăng Mỹ đang muốn liên minh với Việt Nam để đối phó với một nước Trung Hoa đang mưu đồ bá quyền, mà trường hợp trước mắt là những lấn ép lãnh hải tại Biển Đông?
Có ý kiến cho rằng Việt Nam nên nắm lấy cơ hội nghìn năm một thuở này mà duy tân như nước Nhật đã từng làm.
Dĩ nhiên là, trong một bàn cờ rối như ở Biển Đông thì có một nước cờ mà đi cũng là một niềm vui, dù cho rằng tòan thể thế cờ hình như vẫn còn là một thế kẹt.
Nhưng câu hỏi được đặt ra là, đây có phải là khởi đầu của một thế cờ mới chăng?
Biển Đông là một bàn cờ có nhiều tay chơi cho nên diễn biến ra sao còn tùy thuộc vào não trạng của từng tay chơi một.
Não trạng của con cọp Trung Hoa khổng lồ thì ai cũng rõ biết, đó là nó đang muốn sổ lồng, nó muốn cả vùng Biển Đông là cái ao tắm của nó.
Não trạng của các nước nhỏ quanh vùng thì rõ ràng là "thủ". Giống như một anh chàng tay không bỗng thấy mình đứng trước một con cọp dữ thì vũ khí chính chỉ là tiếng hét mà thôi.
Còn não trạng của "con cọp giấy" Hoa Kỳ (tên mà Mao đặt cho Mỹ năm 1956) là gì?
Vì đây là một tay chơi vừa nhập cuộc cho nên việc tìm hiểu anh ta cho rõ ràng là rất cần thiết.
Nếu có thể lấy lịch sử mà đóan trước tương lai, thì nước Mỹ là một nước luôn luôn hành động và trung thành theo đuổi một tư tưởng "thịnh thời". Những tư tưởng này có nhiều hình thức và tên gọi khác nhau (như lý thuyết, chương trình, sách lược) nhưng chung qui thì đó là một lọai đồng thuận phát sinh ra bởi một môi trường tự do tư tưởng, lưỡng đảng và chính sách minh bạch mà ra.
Thử nhìn lại một số tư tưởng "thịnh thời" gần gũi với chúng ta nhất.
Sau thế chiến thứ hai, người Mỹ tin rằng để chống lại chủ thuyết Cộng Sản đang phát triển mạnh trong các nước bị tàn phá thì điều cần phải làm là tái thiết. Do đó họ đã bỏ ra 44.3 tỷ Mỹ Kim từ năm 1945 cho đến 1953 để phục hồi nền kinh tế Âu Châu. Những chương trình viện trợ đó thường được gọi chung là Marshall Plan (Truman, 1948).
Marshall Plan không những chặn đứng Cộng Sản ở Châu Âu mà còn đưa Tây Âu đến một thời cực thịnh chưa từng thấy, và đó cũng là lý do gián tiếp của sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết sau này.
Bên phía Á Châu thì người Mỹ tin rằng với những quốc gia nhược tiểu nhưng có nhiều liên hệ về văn hóa lịch sử như Trung Hoa, Việt Nam,Thái Lan và Mã Lai, thì một quốc gia bị đổ sẽ kéo theo sự sụp đổ dính chùm của các quốc gia khác. Dwight D. Eisenhower đặt tên lập luận đó là lý thuyết Domino (Domino Theory, 1954.) vì nó giống như một hàng domino, một con cờ bị lật sẽ dồn những con cờ khác lật theo.
Vì vậy suốt từ năm 1950 cho tới 1980 người Mỹ đã không tiếc tiền đổ vào miền Đông Nam Á để be bờ, ngăn chặn. Những nỗ lực này thất bại vì Trung Hoa và bán đảo Ấn Trung (trong đó có Việt Nam) đã bị mất, nhưng đổi lại các quốc gia khác trong vùng như Thái Lan, Mã lai, Ấn Độ và Indonesia đã có đủ thời gian để tự cải tiến và vượt qua cái hấp dẫn của chủ nghĩa Cộng Sản.
Sự kiện chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ năm 1975 tuy bị coi là một thất bại của lý thuyết Domino nhưng thực ra nó còn là hệ lụy của một chủ thuyết mới ở Mỹ. Lúc này người Mỹ đã nhận ra rằng cả hai bên Tư Bản và Cộng Sản đã phát triển vũ khí hạt nhân nhiều đến nỗi, ngay cả lực lượng trừ bị lọai thứ ba cũng đủ sức tiêu diệt tòan thể nhân lọai nhiều lấn (nghĩa là nếu một nước bị tấn công bất ngờ và lực lượng nguyên tử lọai tấn công bị tiêu diệt tới hai lần liên tiếp thì lực lượng nguyên tử lọai thứ ba cũng vẫn có thể tự sát cả thế giới.) Trong một bối cảnh như thế thì chiến thắng là vô nghĩa và do đó con đường phải đi là hòa hõan với nhau (Detente), cuộc chiến về quân sự đã lỗi thời và chiến tuyến mới chính là kinh tế. Từ năm 1969 cho tới 1977 Nixon và Kissinger đã làm hòa với Nga, làm bạn với Tàu để mở rộng thị trường trong một chính sách hòa hõan và xáp lại gần nhau (Detente and Rapprochement). Việt nam là một con cờ lỗ lã trong nước cờ kinh tế này, và vì thế mà bỏ đi càng sớm thì càng tốt.
Từ năm 1981 cho đến 1989 sự phục hồi kinh tế của Hoa Kỳ đã vững mạnh đến nỗi Reagan có thể chủ trương "Hòa Bình trong thế mạnh" (peace through strength). Ông không để cho Liên Bang Xô Viết rảnh tay lo việc kinh tế nữa bằng cách giáp công ba mặt: (1) Không bán cho LBXV những kỹ thuật cao, (2) cạnh tranh hàng hóa để mặt hàng LBXV mất giá và (3) tăng cường chi phí quốc phòng làm cho LBXV phải chạy đua. Trong những năm sau cùng của cuộc chiến tranh lạnh, Moscow đã phải chi tới 25% GDP (tổng sản lượng quốc gia) cho kinh phí quân sự mà vẫn không theo kịp Mỹ trong khi tòan dân đói khát phải xếp hàng cả nửa ngày để mua được một mẩu bánh mì. Cuộc chiến đã kết thúc không một tiếng súng trong thời Tổng Thống Bush (cha).
Từ đó cho đến nay, Những tin tưởng của Hoa Kỳ vẫn phản ảnh những ưu tiên đã có từ thời Nixon và Kissinger. Nghĩa là vẫn tìm thị trường phát triển bằng cách kết thân với Trung Quốc. Nhưng với sự chỗi dậy của Nga và sự phát triền hải quân của Tàu mới đây, nhiều lý thuyết gia Mỹ đã bắt đầu đặt lại phương trình.
Một lý thuyết gia được nói tới nhiều là George Friedman. Trên tạp chí hàng đầu của giới trí thức Mỹ, khi người ta đăng bài của Tổng Thống Obama về những kỳ vọng của 40 năm sắp tới, ngay bên cạnh người ta cũng đăng ý kiến của ông về viễn ảnh thế giới 40 năm sau (The Smithsonian, special issue, Our 40th Anniversary 1970-2010.)
Có thể gọi ông là một quân sư vì ông là chủ tịch của một hãng tình báo tư, hãng STRATFOR. Hãng của ông cung cấp tình báo cho các chính phủ và các cơ sở thương mãi. Đây là hãng tư nhân duy nhất được nối mạng với hệ thống chiến tranh giả định của chính phủ HK (Joint Theater Level Simulation by the Joint Warfighting Center.)
Không rõ ông có tiếng nói gì trong những chính sách của Obama hay không, nhưng là một tiến sĩ chính trị tại Cornell University, ông đã viết nhiều sách tiên đóan về tương lai thế giới như The Next 100 Years, America's Secret War, The Intelligence Edge, and The Future of War.
Ông là người duy nhất trong các tác giả hiện đại đã tính tóan một vấn đề dựa trên các dữ liệu của cả hai yếu tố kinh tế và quân sự.
Những tiên đóan của ông có khi lạ lùng khó tin, nhưng quan trọng không phải là ở sự việc có xảy ra hay không, hoặc sẽ xảy ra đúng ngày giờ không, mà là những yếu tố cấu tạo ra sự việc có tính cách thuyết phục hay không.


Ông tiên đóan:
Năm 2020 Nước Tàu sẽ phân chia.
Năm 2050 Thế chiến thứ 3 sẽ xảy ra giữa các liệt cường là Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Lan và Nhật.
Tại sao Ba Lan (nền Kinh Tế thứ 21 trên thế giới) sẽ trở thành liệt cường trong vòng 40 năm thì đó là việc cần phải chờ xem và Friedman cũng không đưa ra nhiều chứng cớ rõ ràng. Tuy nhiên ông nói Ba Lan vì ở giữa hai gọng kìm Đức và Nga cho nên sẽ luôn luôn là đồng minh trung thành của Mỹ.
Thổ Nhĩ Kỳ (nền Kinh Tế thứ 17) là nước tiền tiến nhất của khối Hồi Giáo, có quân đội hùng mạnh nhất Châu Âu, đang là một thế lực hải quân ở Địa Trung Hải, sẽ có thể trở thành trung tâm của khối Hồi Giáo và sẽ cần một lực lượng hải quân rộng hơn để nối liền các quốc gia hồi giáo quanh vùng Ấn Độ Dương.
Về việc nước Tầu, Friedman cho rằng Trung Hoa sẽ không thể trở thành một đe dọa cho Mỹ vì trong sân nhà của Trung Hoa sẵn có một tỷ người đang đói rách, khác chủng tộc, và sống trong các vùng khô cằn. Một quốc gia với vóc dáng kinh tế và quân sự chưa vững vàng như vậy thì việc lo nội trị đã đủ là một vấn đề rồi. Chưa kể đó là những yếu huyệt sẽ quật ngã Trung Hoa nếu chiến tranh tòan diện xảy ra, cho nên Trung Hoa sẽ tránh những đụng độ lớn.


Nước Nhật là quốc gia có nền kinh tế ngang ngửa với Trung Hoa, nhưng dân Nhật đòan kết, nền kinh tế và quân sự vững bền. Con đường sống của Nhật là hàng hải cho nên họ ưu tiên phát triển hải quân và đang đứng đầu Á Châu. Mỗi năm chi phí quốc phòng của Nhật là 45.8 tỷ, chỉ sau Hoa Kỳ và Anh Quốc, to gấp rưỡi chi phí của Tẩu (29.9 tỷ). Quan trọng hơn, kinh phí đó chỉ là 1% GDP của họ, có nghĩa là họ có thể tăng gấp 3 lực lượng hải quân một cách dễ dàng (Mỹ 3.6% GDP kể chung các binh chủng.)
Friedman không đề cập nhiều đến Ấn Độ và Ba Tây. Có thể ông cho rằng Ấn Độ sẽ không bao giờ thách thức Mỹ, hoặc như nhiều nhà phân tích khác (i.e Joel Kotkin) thì Ấn Độ sẽ không tiến xa chỉ vì xã hội Ấn luôn luôn phân hóa. Còn Ba Tây thì cho đến nay vẫn chưa là một hải lực quan trọng.
Friedman tiên đóan Thổ Nhĩ Kỳ và Nhật sẽ thách thức sức mạnh hải quân của Hoa Kỳ và cuộc chiến sẽ khởi đầu bằng những đụng độ trên không gian để tiêu diệt vệ tinh viễn thông điều khiển tầu bè của nhau.
Như đã nói ở trên, những tiên đóan của Friedman lạ lùng và khó tin, nhưng quan trọng không phải là ở sự việc có xảy ra hay không mà là những chứng cớ. Về điểm này thì hầu như các bình luận gia của Mỹ đồng ý với nhận xét của Friedman về hai nước Nhật và Tầu, ít ra là chưa có nhiều ý kiến đối lập.


Thế kỷ 21 cho thấy tầm quan trọng về kinh tế của khu vực Thái Bình Dương, số lượng giao thương đã vượt qua Đại Tây Dương.
Hoa Kỳ là cường quốc duy nhất tiếp cận với cả hai đại dương cùng một lúc, và là cường quốc duy nhất kiểm sóat tất cả các mặt biển trên trái đất. Sức mạnh kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ tùy thuộc vào Hải Quân. Cho nên sẽ không ai được thách thức Hải Quân của Hoa Kỳ và Hoa Kỳ sẽ kềm giữ những ai có tham vọng phát triển Hải Quân để trở thành một mối lo cho họ.
Hoa Kỳ trong một tương lai gần sẽ vẫn là vô địch về kinh tế và quân sự. Trong vòng 40 năm tới, dân số Hoa Kỳ sẽ trẻ lên 42%, trong khi Trung Hoa già đi 10%, Âu Châu già đi 25% Nam Hàn già đi 30% và Nhật 40% (Theo ước tính cùa sở kiểm tra dân số Hoa Kỳ.) Sự trẻ trung hóa đó cộng với một nền giáo dục thúc đẩy công nghệ cao (các trường Đại Học Mỹ đào tạo nhiều kỹ sư hơn Ấn Độ và Nhật xét theo cả hai hai phương diện tỳ số và số lượng,) cộng với yếu tố đất rộng, nhiều tài nguyên nội địa, là những lý do giúp Hoa Kỳ duy trì vị thế độc tôn này.
Nếu giới quân sự Mỹ có ý kiến tương đồng với Friedman về những thế lực có thể thách thức sức mạnh của Mỹ trong tương lai thì quốc gia mà Mỹ lưu tâm trong vùng Thái Bình Dương là Nhật chứ không phải là Trung Hoa. Và lý do Mỹ phải bảo vệ đường biển tại Biển Đông là có chủ ý không cho Nhật có cái lý do là cần phát triển hải quân thêm nữa để bảo vệ lấy mình.
Một khi Trung Quốc nhượng bộ quyền hải lưu của Nhật và Mỹ vừa đủ, thì thái độ của Hoa Kỳ sẽ lập tức đổi chiều. Mỹ vẫn coi trọng thị trường rộng lớn của Trung Hoa và vẫn coi Trung Hoa là không nguy hiểm.
Việt Nam trở nên quan trọng với Mỹ chỉ vì Trung Quốc đã đi quá đà cần phải điều chỉnh lại. Nhưng sự quan trọng này là tạm bợ và không thỏai mái vì kinh nghiệm đã làm cho Mỹ không tin vào Việt Nam được. Sự liên kết hay tương trợ này chỉ có thể kéo dài nếu Việt Nam được sự hậu thuẫn chính trị trong nước Mỹ và, tuy chưa đủ khả năng kiểm sóat Biển Đông thì cũng phải có khả năng phá rối.


Nhìn vào thế cờ Biển Đông, cho đến khi Việt Nam thực sự là một tay chơi có bản lĩnh và căn cơ, Việt nam vẫn chỉ là một nước cờ người khác tạm dùng.
Và nếu thực sự như vậy, thì những lạc quan của người Việt khắp nơi vẫn giống như những giọt bọt bèo mau vỡ mà thôi.
Trần Mạnh Trác

Thursday, August 19, 2010

The U.S. Troop Leaving Iraq / Letter from Obama



The White House, Washington
Good afternoon,
Shortly after taking office, I put forward a plan to end the war in Iraq responsibly. Today, I'm pleased to report that -- thanks to the extraordinary service of our troops and civilians in Iraq -- our combat mission will end this month, and we will complete a substantial drawdown of our troops.

Over the last 18 months, over 90,000 U.S. troops have left Iraq. By the end of this month, 50,000 troops will be serving in Iraq. As Iraqi Security Forces take responsibility for securing their country, our troops will move to an advise-and-assist  role. And, consistent with our agreement with the Iraqi government, all of our troops will be out of Iraq by the end of next year. Meanwhile, we will continue to build a strong partnership with the Iraqi people with an increased civilian commitment and diplomatic effort.

A few weeks ago, men and women from one of the most deployed brigades in the U.S. Army, the 2nd Brigade Combat Team, 10th Mountain Division, returned home from Iraq. The Vice President and Dr. Jill Biden were at Fort Drum to welcome the veterans home and spoke about their personal experiences as a military family:

Watch the Video Our commitment to our troops doesn't end once they come home -- it's only the beginning.  Part of ending a war responsibly is meeting our responsibility to the men and women who have fought it. Our troops and their families have made tremendous sacrifices to keep our nation safe and secure, and as a nation we have a moral obligation to serve our veterans as well as they have served us.

That's why we're building a 21st century Department of Veterans Affairs.  We've made one of the largest percentage increase in the VA’s budget in 30 years, and we're dramatically increasing funding for veterans' health across the board. In particular, we're delivering unprecedented resources to treat signature wounds of today's wars—Traumatic Brain Injury and Post-Traumatic Stress Disorder.

Our sacred trust to take care of our veterans goes beyond simply healing the wounds incurred in battle. We must ensure that when our veterans leave the Armed Forces, they have the opportunities they need to further their education and support their families.  Through the Post-9/11 GI Bill, some 300,000 veterans and families members have pursued a college degree.  Others are taking advantage of job training and placement programs.

My Administration will continue to do our part to support the brave men and women in uniform that have sacrificed so much.  But supporting our troops and their families is not just the job of the Federal Government; it's the responsibility of all Americans.

As we mark this milestone in the Iraq war and our troops continue to move out of Iraq, I hope you'll join me in thanking them, and all of our troops and military families, for their service.

Sincerely,
President Barack Obama

Friday, August 13, 2010


“NƯỚC MỸ CỦA TÔI” VÀ CUỘC TẤN CÔNG THỨ HAI

Tối 20.9.2001, trong thông điệp đặc biệt đọc trước lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ về cuộc khủng bố tấn công chín ngày trước, Tổng thống George W. Bush nói:
“Ngày 11 tháng 9, kẻ thù của tự do đã gây chiến chống lại đất nước chúng ta. Người Mỹ đã biết những cuộc chiến tranh, nhưng trong 136 năm qua, chúng ta đã lâm chiến trên lãnh thổ nước ngoài, trừ một lần vào ngày chủ nhật năm 1941.
“Người Mỹ đã biết đến những tổn thất của chiến tranh, nhưng không phải ở trung tâm một thành phố vĩ đại vào một buổi sáng an bình. Người Mỹ đã biết đến những cuộc tấn công bất ngờ, nhưng trước đây chưa từng có cuộc tấn công nào nhắm vào hàng ngàn thường dân. Tất cả những điều này đã đến với chúng ta chỉ trong một ngày, và màn đêm đã buông xuống trên một thế giới khác: một thế giới mà tự do bị tấn công.
“Tối nay, người Mỹ có nhiều câu hỏi: Ai đã tấn công đất nước chúng ta?”
Một tuần lễ sau, người Mỹ đã có câu trả lời: Kẻ đã lén lút tấn công nước Mỹ ngày 11.9.2001 là Osama Bin Laden và tổ chức khủng bố Hồi giáo quá khích Al Qaeda của hắn đặt căn cứ tại Afghanistan được chính quyền Taliban dung dưỡng.

Mấy tháng sau, quân đội Mỹ mở chiến dịch tấn công Afghanistan, lật đổ chế độ Taliban và truy lùng Osama Bin Laden. Nay, sau tám năm chiến tranh hao người tốn của, người Mỹ vẫn chưa bắt hay giết được Osama Bin Laden. Hắn vẫn còn lẩn trốn trong vùng núi non hiểm trở ở biên giới Pakistan và loạn quân Taliban vẫn tiếp tục chiến đấu, kiểm soát nhiều khu vực trên lãnh thổ Afghanistan. Không mấy ai tin rằng tình hình nước này sẽ ổn định khi quân Mỹ ra đi vào tháng 7.2011 theo kế hoạch được loan báo trước của Tổng thống Obama.
Trong khi đó, Al Qaeda vẫn tiếp tục âm mưu tấn công nước Mỹ bằng chiến thuật khủng bố mà sự thất bại chỉ là nhờ may mắn của người Mỹ - từ vụ toan làm nổ một chuyến bay thương mại với hơn 200 hành khách trên bầu trời Denver vào ngày lễ Giáng sinh 2009 đến một chiếc xe chứa đầy chất nổ được phát hiện giữa thành phố New York vài tháng sau.

Và nay, thành phố New York lại đang là mục tiêu của một cuộc tấn công khác, dưới một hình thức khác, tuy không có người chết và nhà cửa sụp đổ, nhưng không kém hung hiểm. Ngày 3.8 vừa qua, Hội đồng Bảo quản Di tích (Landmarks Preservation Commission) TP New York đã biểu quyết với số phiếu tuyệt đối 9-0 bác bỏ tính cách di tích lịch sử của một cao ốc được xây từ 150 năm trước toạ lạc tai số 45-47 Park St., dọn đường cho dự án xây dựng một thánh đường và trung tâm văn hoá Hồi giáo tại đây.
Quyết định này đã châm ngòi cho một cuộc tranh luận gay gắt giữa phe ủng hộ và phe chống đối dự án này. Trung tâm của cuộc tranh luận là ngôi thánh đường Hồi giáo dự định xây cất chỉ cách “Ground zero”, khu đất của Trung tâm Mâu dịch Thế giới đã sụp đổ trong cuộc tấn công ngày 11.9.2001, có 600 feet (khoảng 200 mét).

Trong khi hơn 60 phần trăm cư dân thành phố New York chống đối dự án này thì người ủng hộ nhiệt tình nhất lại là ông Thị trưởng Michael R. Bloomberg. Ngày 3.8, trước mặt những lãnh tụ đại diện cho nhiều tôn giáo, với Tượng Nữ Thần Tự Do ở phiá sau lưng, Ông Bloomberg nói với giọng khích động hiếm thấy:
“Khi chạy tới hai toà cao ốc đang bốc cháy, không ai trong những người tiếp cứu hỏi: ‘Anh cầu nguyện Thượng đế nào? Đức tin của anh là gì?’ Chúng ta không thể vinh danh những người đã hy sinh mạng sống anh hùng ấy bằng cách khước từ chính những quyền hiến định mà họ đã chết để bảo vệ… Tôi tin rằng đây là một trắc nghiệm cũng quan trọng như sự phân cách giữa giáo hội và quốc gia, và điều hết sức quan trọng là chúng ta quyết định đúng.”

Những lời lẽ thật hay đẹp. Và, Ông Bloomberg, một tỉ phú đã đổi từ đảng viên Cộng Hoà sang Độc Lập và đã làm thị tưởng New York 8 năm rưỡi, nói thêm: “Toà nhà này là tài sản của tư nhân và sở hữu chủ có quyền dùng vào việc thờ cúng. Chính quyền không có bất cứ quyền năng nào để chối từ quyền ấy.”
Nghe thật chính đáng và đầy tinh thần thượng tôn hiến pháp. Nhưng những người chống đối lại có cái nhìn khác, và có lý do cũng rất chính đáng, để không coi đây là một thánh đường bình thường như những thánh đường khác:
- Tại sao lại chọn địa điểm quá gần “ground zero”?
- Thầy tu (Imam) Feisal Abdul Rauf, người đứng đầu dự án, có tư tưởng cực đoan.
- Kinh phí hơn 100 triệu Mỹ kim từ đâu mà ra?
“Ground zero” không phải chỉ là nơi Trung tâm Mậu dịch Thế giới đã sụp đổ, hay chỉ đơn giản là nơi đã diễn ra một tội ác trọng đại. Hơn thế, đó là một chiến địa, là nơi đã thấm máu của ba ngàn con người, hầu hết là người Mỹ, đã bị tàn sát vào ngày định mệnh ấy. Đó là một đền thờ của quốc gia, cũng như Trân Châu Cảng, để tưởng nhớ những nạn nhân của tội ác do Hồi giáo cực đoan gây ra trên đất Mỹ.
Những người chống đối nói rằng cuộc tấn công ngày 11.9 do Hồi giáo cực đoan tiến hành nhân danh cuộc thánh chiến chống lại phương Tây, và đã dùng kinh Koran cùng những nguyên tắc Hồi giáo để biện minh cho hành động giết người. Mục tiêu của chúng là đem thánh chiến vào nước Mỹ để tung ra một cuộc đụng độ của hai nền văn minh, cùng lúc đang diễn ra trên khắp thể giới để áp đặt một đế quốc Hồi giáo dựa trên giáo luật Shariah. “Ground Zero” chính là nơi Hồi giáo cực đoan đã chọn để đưa chiến tranh vào nước Mỹ.
Vì vậy, xây dựng một thánh đường Hồi giáo tại đây là một thách thức về tôn giáo, là cố ý tát vào mặt những nạn nhân, gia đình họ, và toàn thể dân Mỹ. Vì vậy mà những người chủ trương đã không lùi bước trước những chống đối và cũng không chấp nhận một khu đất khác xa hơn. Họ biết rằng toà nhà cao 13 tầng này, gồm một giáo đường và một trung tâm văn hoá Hồi giáo với một hội trường 500 chỗ ngồi, sẽ tạo một bóng đen khổng lồ áp đảo “ground zero”, được dùng như một biểu tượng của Hồi giáo chinh phục nước Mỹ. Nếu Hồi giáo có thể xây thánh đường tại chiến địa 11 tháng 9, họ có thể áp đặt ý muốn của họ bất cứ tại đâu.

Thầy tu Feisal Abdul Rauf, linh hồn của dự án xây thánh đường cạnh “ground zero”, bị cáo buộc là một người Hồi giáo chiến đấu không hối cải, một người đạo Hồi phiêu lưu. Ông ta từng công khai tuyên bố rằng chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ là một phụ tùng của cuộc tấn công ngày 11 tháng 9. Nói cách khác, theo cái nhìn của Thầy tu Rauf, người Mỹ đã tự đem sự tàn ác đến cho mình. Ông ta kêu gọi du nhập luật Shariah vào toà án Mỹ. Vắn tắt, ông ta công khai tìm cách Hồi giáo hoá nước Mỹ.
Thầy tu Rauf cũng bị tố là một người Hồi giáo đạo đức giả. Ông ta dùng Hiếp pháp Hoa Kỳ để đòi được tự do tôn giáo trong khi hô hào áp dụng luật Shariah, theo đó hoà trộn giáo hội và quốc gia, và ức chế tôn giáo khác. Người Hồi giáo đang sử dụng tự do của người Mỹ trong mưu toan tiêu diệt tự do của người Mỹ.
Rauf không chịu tiết lộ nguồn gốc của số tiền hơn 100 triệu Mỹ kim để thực hiện dư án và chính quyền Mỹ cũng không bận tâm tìm hiểu xuất xứ của số tiền không nhỏ ấy. Hơn thế nữa, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ coi Rauf là một “nhà tu Hồi giáo ôn hoà”, và còn dùng tiền của dân đóng thuế để cử Rauf “công du” vùng Trung Đông với sứ mạng tạo “sự hiểu biết lớn hơn” về đạo Hồi và các cộng đồng Hồi giáo ở Mỹ. Dĩ nhiên ông ta sẽ không bỏ lỡ cơ hội để kiếm tiền, gây quỹ xây dựng ngôi thánh đường Hồi giáo ngay cạnh “ground zero”, nơi được những người chống đối gọi là khu “đất thiêng liêng”.
Tổ chức ACLJ (American Center for Law & Justice) đã nạp đơn kiện Hội đồng Bảo trì Di tích về quyết định bác khước tính cách di tích lịch sử của toà nhà số 45-47 Park St. với sự hậu thuẫn của một số tổ chức khác, và nhiều nhân vật tên tuổi của hai Đảng Cộng Hoà và Dân Chủ. Cuộc chiến còn tiếp diễn trên bình diện quốc gia.
Nếu coi “ground zero” là chiến địa của cuộc tấn công ngày 11/9.2001 thì nay nó đang bị tấn công lần thứ hai, và nếu lần này Hồi giáo lại thắng nữa, e rằng USA có ngày sẽ biến thành “United States of Arabia” như một nhà bình luận trên tờ Washington Times đã chua cay tiên đoán.
Nhưng, nước Mỹ không phải chỉ bị “Hồi giáo ôn hoà” tấn công trên mặt trận không tiếng súng, cùng lúc với “Hồi giáo cực đoan” âm mưu khủng bố bằng bom đạn. Trong gần hai năm vừa qua, dân Mỹ đã nhận ra những quyền tự do hiến định của mình đang bị mất đi dần dần, từng mảng một, trong lúc chính quyền mỗi ngày một bành trướng để kiểm soát từ kinh tế, tài chính, đến sức khoẻ, y tế, mặc sức chi tiêu với Đảng Dân Chủ kiểm soát cả hai viện Quốc hội và một ông tổng thống Dân Chủ có khuynh hướng “xã hội chủ nghiã”.

Nước Mỹ đang trên đà phá sản và tiến tới xã hội chủ nghiã kiểu Âu Châu bằng những quyền lực không do dân bầu ra cấu kết với nhau (toà án, truyền thông báo chí, các trường đại học, các viên chức bàn giấy, Hollywood, vân vân).
Năm ngoái, trước khi được bán với giá một đô-la (1 USD) cho chồng một nữ dân biểu Đảng Dân Chủ, tạp chí Newsweek đã vui mừng chạy một tựa đề lớn: “WE ARE ALL SOCIALISTS NOW”.
Hai tháng trước, cơ quan thăm dò ý dân của Đảng Dân Chủ (Democracy Corps) hỏi dân Mỹ “how well the term ‘socialist’ fit President Obama”. Kết quả: 55 phần trăm trả lời “well” hay “very well”. Cũng trong tháng ấy, một cuộc thăm dò của Viện Gallup cho thấy 42 phần trăm dân Mỹ tự coi mình là bảo thủ (conservative) - một tỉ lệ cao lịch sử, 35 phần trăm trung dung (moderate), 20 phần trăm tự do cấp tiến (liberal). Ba phần trăm còn lại được xem như thuộc thành phần xã hội, cộng sản, vô chính phủ, phát-xít, quốc xã...

Có những dấu hiệu cho thấy dân Mỹ đã bừng tỉnh sau cơn mê “Thay đổi” (Change) và đang chờ đợi để bước vào phòng phiếu vào tháng 11 tới đây mà kết quả sẽ quyết định tương lai nước Mỹ “của tôi”.

Năm 2001, sau 13 năm trở thành công dân Mỹ trên giấy, lần đầu tiên vào sáng ngày 11 tháng 9, tôi đã có cảm nghĩ rõ ràng “nước Mỹ của tôi” khi nhìn hai toà nhà chọc trời ở New York cháy ngùn ngụt trước khi sụp đổ trên màn ảnh computer tại văn phòng của sở ở Washington DC, và sau đó da trắng, da đen, da vàng đã ôm nhau khóc.
Rồi khi lái xe về nhà và bị kẹt trên đường phố hàng giờ, nhìn cột khói đen lớn bốc lên từ phiá Ngũ-giác-đài bên kia sông Potomac, tôi tưởng như đang sống lại cảnh Tết Mậu Thân ở Sài-Gòn và thầm khấn nguyện: “Xin Thượng đế phù hộ cho nước Mỹ… của tôi”.
Mấy ngày sau, tôi đã chăm chú nghe thông điệp của Tổng thống Bush như một nhà lãnh đạo đất nước của mình, và có thể đã hiểu sâu xa những điều ông nói hơn là nhiều người Mỹ khác, hậu duệ sung sướng của những người di dân trước đây nhiều thế hệ đã tạo lập nên quốc gia vĩ đại tự do này, nhất là khi nghe ông Bush nói về cuộc chiến sắp tới để bảo vệ đời sống tự do:
“Diễn tiến của cuộc chiến đấu này chúng ta chưa biết, nhưng kết quả thì chắc chắn. Tự do và sự sợ hãi, công lý và sự tàn bạo đã luôn luôn ở trong tình trạng chiến tranh với nhau, và chúng ta biết Thượng đế không đứng trung lập giữa những điều ấy.”
Phải là những người đã sống trong sự sợ hãi và tàn bạo, như tôi, mới cảm nhận sâu xa ý nghĩa những lời nói trên đây.
Gần mười năm đã trôi qua, cuộc chiến đấu cho tự do và công lý của đất nước này vẫn còn tiếp tục, có phần còn quyết liệt và hiểm nguy hơn lúc khởi đầu.
Xin Thượng đế phù hộ cho “nước Mỹ của tôi.”

Sơn Tùng
13.8.2010

Sunday, August 8, 2010








Khu trục hạm USS John S. McCain đến Ðà Nẵng tuần tới 'trao đổi huấn luyện' với Hải Quân Việt Nam

HONGKONG (TH) - Một phái đoàn quân sự của quân đội Việt Nam sẽ được đưa ra thăm viếng hàng không mẫu hạm nguyên tử của Mỹ vào cuối tuần này khi nó đi ngang qua khu vực miền Trung Việt Nam .
Một bản tin của báo Anh ngữ South China Morning Post (SCMP) xuất bản ở Hồng Kông cho hay hôm Thứ Bảy và nói viên chức Hải Quân Hoa Kỳ xác nhận như vậy.



Hàng không mẫu hạm nguyên tử USS George Washington, trong tấm hình chụp ở Thái Bình Dương năm 2009. Hàng không mẫu hạm này sẽ tiếp một đoàn sĩ quan quân đội Việt Nam sắp tới đây.
(Hình: Adam K. Thomas/U.S. Navy)


Hàng không mẫu hạm USS George Washington vừa tham dự cuộc tập trận hỗn hợp với các đơn vị hải quân của Hàn Quốc ở trên biển Hoàng Hải đang trên đường đi xuống phía Nam.
Việc tiếp đón một phái đoàn quân sự cao cấp Việt Nam xuống thăm viếng trong bối cảnh các biến cố dồn dập liên quan đến tranh chấp chủ quyền biển đảo biển Ðông mang nhiều ý nghĩa chính trị, đồng thời cho thấy dấu hiệu mối quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có vẻ ngày càng ấm lên.

Sự xuất hiện của mẫu hạm USS George Washington trọng tải 104,000 tấn và đoàn tàu đặc nhiệm chiến đấu và yểm trợ ngay trên vùng biển hai nước Việt Nam và Trung Quốc đang có nhiều căng thẳng tranh chấp chủ quyền là một tín hiệu được Bắc Kinh theo dõi sát sao.
Mới hai tuần lễ trước, và chỉ 3 ngày sau những lời tuyên bố của Ngoại Trưởng Hillary Clinton ở Hà Nội, Trung Quốc đã mở ngay một cuộc tập trận hải quân qui mô trên biển Ðông, diễu võ dương oai thách thức.


Ðoàn sĩ quan quân đội Việt Nam theo dõi cảnh thao diễn của máy bay quân sự Mỹ
trên tàu sân bay USS Stennis ngày 22 tháng 4, 2009. (Hình: Tuổi Trẻ)


Theo báo SCMP, viên chức nhà nước và sĩ quan Việt Nam sẽ bay từ phi trường Ðà Nẵng để ra thăm mẫu hạm nói trên, hiển nhiên, cũng chẳng cách bao nhiêu đối với quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc cướp của Việt Nam năm 1974 rồi đang tiến hành các kế hoạch bành trướng ở đây.
Ðây là lần thứ ba mà các phái đoàn quan chức và sĩ quan Việt Nam được mời xuống thăm các hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ. Nhưng đây là lần thứ hai một phái đoàn CSVN được mời xuống một mẫu hạm khi nó đi ngang vùng biển quốc tế sát Việt Nam .

Tháng 4, 2009, Ðại Sứ Mỹ Michael Michalak đã hướng dẫn một phái đoàn khoảng 10 sĩ quan (cao cấp nhất là đại tá) Không Quân và Hải Quân CSVN thăm mẫu hạm Stennis ở một địa điểm cách phía Nam đảo Côn Sơn khoảng 250 hải lý.
Mới ngày 2 tháng 7, 2010, một phái đoàn do phó đại sứ Việt Nam tại Hoa Thịnh Ðốn, Nguyễn Tiến Minh, cầm đầu đã xuống thăm mẫu hạm USS George H.W. Bush, tại căn cứ Hải Quân Norfolk ở tiểu bang Virginia , Mỹ.

Khoảng tuần tới, một khu trục hạm Hoa Kỳ, USS John S. McCain, sẽ đến thăm viếng cảng Ðà Nẵng ở miền Trung Việt Nam nhằm trao đổi huấn luyện giữa hải quân hai nước về các qui tác tiến hành các hoạt động không nhạy cảm như chữa cháy, tìm kiếm và cứu vớt trên biển. Khu trục hạm này được đặt tên vinh danh ông nội và cha của Thượng Nghị Sĩ John McCain; cả hai đều là đô đốc 4 sao.

Trong cuộc họp của Diễn Ðàn An Ninh Khu Vực ASEAN ở Hà Nội ngày 23 tháng 7, 2010, Ngoại Trưởng Mỹ Hillary Clinton nói có lợi ích quốc gia trên biển Ðông theo các thỏa thuận quốc tế. Bà nói Hoa Kỳ sẵn sàng đóng góp giải quyết tranh chấp biển Ðông bằng thương nghị ngoại giao. Trung Quốc lập lại lời chống quốc tế hóa, đa phương hóa tranh chấp chủ quyền biển đảo và coi cái “lưỡi bò” mà họ ngang nhiên vạch ra chiếm gần hết biển Ðông là “lợi ích cốt lõi” (từng được đại diện Trung Quốc thông báo cho Tòa Bạch Ốc hồi tháng 3 vừa qua). Cái gọi là “lợi ích cốt lõi” (core interest) này được xếp ngang hàng với Tây Tạng, Tân Cương là những nước láng giềng đã bị Trung Quốc xâm lăng từ nhiều thập niên trước và đang tiến hành đồng hóa chủng tộc.

Ngày Thứ Năm vừa qua, phát ngôn viên Ngoại Giao Việt Nam họp báo tố cáo Bắc Kinh đã ngang nhiên tổ chức thăm dò dầu khí (có tàu chiến hộ vệ) trên thềm lục địa Việt Nam, từ cuối tháng 5 đến nay, chỉ cách đảo Lý Sơn của Việt Nam khoảng 90 hải lý. Ðồng thời còn san lấp, mở rộng đảo Tri Tôn, đảo phía Nam của quần đảo Hoàng Sa trong nhiều mưu đồ cả kinh tế và quân sự.

Trung Quốc liền lên tiếng bác bỏ cũng như những lần phản đối trước đây của phía Việt Nam. Các lời phản đối suông từ phía Việt Nam không hề có tác dụng. Năm ngoái và năm nay, nhiều tàu đánh cá của Việt Nam đã bị tàu chiến Trung Quốc đâm chìm hoặc bắt giữ ở khu vực gần quần đảo Hoàng Sa.

Trong một bài bình luận trên nhật báo tài chính Wall Street Journal ngày 3 tháng 8, 2010, tác giả Barry Wain (hiện đang là thành viên của Viện Nghiên Cứu Ðông Nam Á ở Singapore) hành động tập trận bắn đạn thật trên biển Ðông của Trung Quốc ngày 26 tháng 7, 2010 là nhằm nói rõ rằng cái “lưỡi bò” là của họ và không thể tranh cãi. Ðồng thời xác định Hoa Kỳ “không có quyền” chen vào tranh chấp ở khu vực mà Trung Quốc tự mình coi là trùm.

Ông Wain cho rằng khi tự coi biển Ðông là “lợi ích cốt lõi,” Trung Quốc đã phạm “lỗi lầm chiến thuật” nên đã gây phản ứng từ những cường quốc Á Châu-Thái Bình Dương khác. Trung Quốc đã đi quá đà dẫn đến phản ứng từ Hoa Kỳ. Nếu không nghĩ lại, Trung Quốc sẽ đẩy các lân quốc đến gần Mỹ hơn.
Theo NVOL

Trung Quốc đẩy Đông Nam Á về phía Mỹ

Quantcast

Có lẽ do đi quá xa trong vấn đề Biển Đông, Bắc Kinh đã thu hút Mỹ vào cuộc tranh chấp chủ quyền ở khu vực này.
Với cuộc tập trận bắn đạn thật tại Biển Đông, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã gửi đi một tín hiệu rõ ràng rằng: Đúng như tuyên bố của người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc Canh Diên Sinh, chủ quyền của Trung Quốc với biển và các đảo tại đây là “không thể tranh cãi”. Các tàu chiến từ cả ba hạm đội của Trung Quốc đều tham dự, cùng với máy bay chiến đấu, tên lửa tấn công mục tiêu tầm xa.
Cuộc tập trận đã vi phạm tinh thần mà Trung Quốc cam kết với những quốc gia láng giềng tám năm trước đây. Bắc Kinh đã cùng với Hiệp hội các nước Đông Nam Á đã ký Tuyên bố ứng xử của các bên tại Biển Đông DOC trong đó nhấn mạnh không đe dọa hay sử dụng vũ lực ép buộc các nước tuyên bố chủ quyền, cam kết hợp tác xây dựng lòng tin.
Tuy nhiên, cuối cùng, người ta đã rõ một điều rằng, thay vào đó, Bắc Kinh đã sử dụng thỏa thuận để lảng tránh vấn đề tranh chấp lãnh thổ, đưa vấn đề ra khỏi chương trình nghị sự khu vực trong khi tăng cường tuyên bố chủ quyền với hầu hết các đảo ở Biển Đông và vùng biển bao quanh.
Tức giận vì Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton gần đây tuyên bố Mỹ có “lợi ích quốc gia” ở Biển Đông đồng thời kêu gọi xây dựng tiến trình đa phương giải quyết tranh chấp chủ quyền các đảo, Bắc Kinh đã phô bày “móng vuốt” của mình. Cùng với những cuộc tập trận quy mô lớn chưa từng thấy, báo chí địa phương đã có hàng loạt bài báo bình luận về tuyên bố chủ quyền quá mức của Trung Quốc.
Tàu chiến Trung Quốc tập trận ở Biển Đông. (Ảnh: THX).
Những cuộc phô diễn lực lượng của Trung Quốc có ý nghĩ truyền tải thông điệp rằng, Bắc Kinh cho là Washington không có quyền can dự ở Biển Đông, nơi Trung Quốc, Đài Loan và bốn quốc gia Đông Nam Á đều đưa ra tuyên bố chủ quyền. Nhưng, hành động của Trung Quốc dường như đã gây phản ứng tiêu cực trong khu vực. Phần lớn Đông Nam Á, đã ngày càng quan ngại về cách hành xử của Trung Quốc tại Biển Đông, coi động thái của Bắc Kinh gần đây là một ví dụ khác cho sự độc đoán.
Trong khi không mong chờ nhiều từ lời đề nghị của bà Clinton trong tổ chức đối thoại đa phương về tuyên bố chủ quyền đầy phức tạp, thì triển vọng của một vai trò an ninh tích cực hơn từ Mỹ đã được đón nhận, hoan nghênh, đặc biệt với những quốc gia Đông Nam có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông.
Trung Quốc và ASEAN đã cam kết thuân thủ luật pháp quốc tế, kiềm chế bất kỳ hành động nào có thể “làm phức tạp hoặc leo thang tranh chấp, ảnh hưởng tới hòa bình và ổn định”.
Dù sao thì, với bản chất của một tài liệu chính trị, tuyên bố trên có nhiều lỗ hổng ví dụ như đã không đề cập phạm vi địa lý  rõ ràng, hay một số điều khoản khá mơ hồ.
Mục đích chính của tuyên bố (như các quan chức sau đó thừa nhận) là gửi một tín hiệu tới cộng đồng quốc tế rằng, Biển Đông không phải là “điểm nóng” khi Trung Quốc với ASEAN có quan hệ kinh tế ngày một gần gũi hơn. Không còn nghi ngờ gì nữa, các cường quốc chính có lợi ích trong tự do hàng hải ở một vùng biển chiến lược như Biển Đông đã “lặng lẽ” ngồi bên lề, trong khi thương mại và đầu tư Trung Quốc – tăng vọt.
Tuy nhiên, trong vùng biển này, lời hứa tự kiềm chế bị phớt lờ. Trung Quốc đưa ra quan điểm cứng rắn hơn, gây hấn hơn về Biển Đông và bắt đầu trình diễn sức mạnh của họ với xung quanh.
Căng thẳng gia tăng trong ba năm qua khi Bắc Kinh đe dọa các công ty dầu khí quốc tế đang hoạt động ở Biển Đông. Chiến dịch hiện đại hóa hải quân Trung Quốc được thực hiện ráo riết, nhiều vụ “quấy nhiễu” tàu Mỹ xảy ra, Trung Quốc áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương và bắt giữ hàng trăm ngư dân Việt Nam.
Trong lúc đó, nhóm làm việc chung Trung Quốc – ASEAN cam kết khảo sát các biện pháp xây dựng lòng tin, để dẫn tới việc thành lập một Bộ quy tắc ứng xử, lại chỉ gặp nhau có ba lần, và Bắc Kinh dường như không hứng thú đi xa hơn.
Trung Quốc chỉ trích mạnh mẽ, gần đây là trực tiếp nhằm vào Mỹ về chuyện “quốc tế hóa” tranh chấp Biển Đông. Bắc Kinh phủ nhận gây sức ép hoặc đe dọa tới hòa bình khu vực bắt nguồn từ tuyên bố chủ quyền “quá mức”, đồng thời cảnh báo chống lại chiến thuật siêu cường truyền thống được áp dụng để duy trì ưu thế ở một khu vực tranh chấp.
Nhưng Bắc Kinh đã nhận thức rõ ràng hơn rằng, khi Ngoại trưởng Mỹ đưa ra vấn đề Biển Đông tại một diễn đàn an ninh khu vực ở Hà Nội ngày 23/7, những nước khác đã cùng “chia sẻ” sự quan ngại. Đó là Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei cũng như Indonesia, EU, Australia và Nhật Bản.
Trung Quốc đã phạm phải một sai lầm chiến thuật bằng tuyên bố Biển Đông “là lợi ích cốt lõi” và rung chuông báo động các cường quốc châu Á – Thái Bình Dương khác. Bằng việc đi quá xa, họ đã thu hút Mỹ vào cuộc tranh chấp. Chừng nào không khí căng thẳng hiện tại qua đi, Bắc Kinh sẽ phải suy nghĩ về cách ứng xử lại với ASEAN: Hoặc chừng mực hơn, hoặc đối mặt với nguy cơ đẩy các nước láng giềng vào một liên minh thân cận hơn với Mỹ.
Tác giả: BARRY WAIN
  • Thụy Phương (Theo WSJ)

Dư luận quanh vụ Hoa Kỳ hợp tác hạt nhân với Việt Nam

WASHINGTON, DC (NV) - “Chỉ trong vòng hai tuần lễ mà Hoa Kỳ đã 'chọc vào mắt' Trung Quốc hai lần, thì e rằng sẽ tạo ra những khó khăn ngoại giao giữa hai quốc gia trong tương lai.”
Trong cuộc gặp gỡ vừa qua giữa đại diện Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và Quốc Hội vào tuần qua, một đại diện văn phòng Chủ Tịch Hạ Viện Nancy Pelosi đã nêu nỗi ưu tư như vậy về hợp tác hạt nhân Mỹ-Việt, theo một nguồn trong giới thạo tin Washington cho báo Người Việt biết.



Từ lâu, Việt Nam đã theo đuổi ước vọng xây nhà máy điện nguyên tử. Trong hình, gian hàng của hãng Mitsubishi, Nhật, thu hút người đi xem Triển lãm Quốc tế Ðiện Hạt nhân tại Hà Nội vào tháng 5, 2010. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Nguồn tin này tiết lộ, đại diện văn phòng Dân Biểu Pelosi hỏi Bộ Ngoại Giao là đã thảo luận với Trung Quốc về việc đàm phán hợp tác hạt nhân với Việt Nam hay chưa, thì Bộ Ngoại Giao khẳng định: “Việc này không dính dáng gì tới Trung Quốc.”Cũng theo nguồn tin trên thì đại diện Bộ Ngoại Giao Hoa kỳ nói thêm: “Chúng tôi thấy là không cần thiết phải thông báo với Trung Quốc, vì đây là một hợp tác chỉ liên quan đến hai quốc gia Hoa Kỳ và Việt Nam .”
Tuy nhiên, phản ứng ở nhiều nơi cho thấy dư luận không cho việc Hoa Kỳ hợp tác hạt nhân với Việt Nam mà một vấn đề thuần túy song phương, mà luôn có bóng dáng Trung Quốc chập chờn chung quanh.

Trung Quốc phản ứng

Tin Hoa Kỳ bắt tay với Việt Nam được báo Wall Street Journal tung lên trang nhất báo này trong ấn bản ngày 5 tháng 8. Tin này được đưa ra khi Trung Quốc còn chưa nguôi ngoai về việc Ngoại Trưởng Hillary Clinton tuyên bố “Hoa Kỳ sẽ không đứng ngoài những tranh chấp tại Biển Ðông,” tại buổi hội nghị Diễn Ðàn Khu Vực ASEAN ở Hà Nội cách đây hai tuần.
Tại Bắc Kinh, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Quốc, bà Mei Li cho biết Trung Quốc “chưa nắm rõ chi tiết” của bản ký kết. Tuy nhiên, bà nhắc lại quan điểm Trung Quốc là “các nước trên thế giới có quyền sử dụng công nghệ hạt nhân vào mục đích hòa bình,” nhưng “các nước cũng cần phải tự có trách nhiệm ngăn chận sự phổ biến hạt nhân.”
Báo chí Trung Quốc, cùng nhiều trang mạng tại Trung Hoa, đăng một loạt bài mô tả nhận định của các chuyên gia là hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực hạt nhân “gây bất ổn” cho Trung Quốc.
Ngay giữa những phản ứng hàng loạt từ phương Bắc, qua lời phát ngôn nhân Bộ Ngoại Giao Nguyễn Phương Nga, Hà Nội chính thức bác bỏ là giữa hai nước chưa bàn thảo gì về chuyện đó.
Bản tin AFP hôm Thứ Sáu trích lời bà Nguyễn Phương Nga tuyên bố:
“Việt Nam và Hoa Kỳ chưa tiến hành các cuộc thương thuyết cho một hiệp ước về việc sử dụng năng lượng nguyên tử một cách hòa bình.”
Tờ China Daily trích lời một số chuyên gia Trung Quốc nói rằng việc Hoa Kỳ và Việt Nam chia sẻ nhiên liệu và công nghệ hạt nhân có thể làm “tan vỡ” ổn định thế giới.
Ông Teng Jianqun, phó chủ tịch Hiệp Hội Kiểm Soát và Giải Trừ Vũ Khí, một hiệp hội phi chính phủ tại Trung Quốc, cho rằng việc Hoa Kỳ không ép Việt Nam phải từ bỏ việc làm giàu chất uranium là áp dụng “tiêu chuẩn kép (double standards) cho các nước.”

Hoa Kỳ trấn an nội bộ

Tờ Wall Street Journal tường thuật rằng một số nghị sĩ tại Quốc Hội Mỹ chỉ trích rằng thỏa thuận sẽ bỏ qua những yêu cầu nghiêm ngặt đang áp đặt cho các nước Ả Rập đang cộng tác hạt nhân với Hoa Kỳ, là bị buộc phải từ bỏ quyền được làm giàu uranium.
Hoa Kỳ nhấn mạnh là bất kỳ thỏa thuận nào với Việt Nam cũng sẽ đòi hỏi Việt Nam phải chịu sự thanh sát của IAEA, cơ quan kiểm soát nguyên tử Liên Hiệp Quốc, để bảo đảm là Việt Nam không có mục tiêu quân sự trong việc phát triển năng lượng nguyên tử.
Nhưng cũng theo tờ Wall Street Journal, phụ tá Ngoại Trưởng Philip J. Crowley, kiêm phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao, từ chối không tiết lộ chi tiết cụ thể về đàm phán với Víệt Nam, và cũng không cho biết là Hoa Kỳ có cho phép Hà Nội được làm giàu uranium hay không.
Cả bác bỏ của Bộ Ngoại Giao Việt Nam lẫn khẳng định của Hoa Kỳ là sẽ đòi hỏi Việt Nam phải chịu sự thanh sát của IAEA, đều dường như không làm dịu đi được nhưng thông tin và bình luận sôi nổi của các hãng truyền thông quốc tế về đề tài này.
Ðài VOA tường thuật là: “Ðàm phán về hạt nhân dân sự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, có thể dẫn đến chuyện Việt Nam sẽ làm giàu chất uranium, điều gây lo ngại cho một số nhà làm luật Hoa Kỳ, vì họ xem đây là một bước lùi trong việc ngăn chận sự lan tràn của các chất liệu hạt nhân có thể sử dụng để chế vũ khí.”
Phụ tá Ngoại Trưởng Crowley nói rằng đó chính là điều mà Hoa Kỳ đang đàm phán với Việt Nam , và Hoa Kỳ hy vọng rằng, Việt Nam , cũng giống như Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, sẽ không sử dụng kỹ nghệ này để tự chế nhiên liệu hạt nhân.
Theo tin của hãng AP thì ông Vương Hữu Tấn, giám đốc Viện Năng Lượng Nguyên Tử Việt Nam, khẳng định rằng: “Việt Nam không có ý định làm giàu Uranium, mà chỉ dùng chương trình này cho mục đích dân sự mà thôi, vì thế các nước không nên quá lo lắng về vấn đề này.”
Trả lời phỏng vấn của đài VOA, ông Andrew Davies, thuộc Viện Chính Sách Chiến Lược của Úc, phát biểu:
“Không phải là tôi không tin tưởng Việt Nam sẽ giữ lời hứa, nhưng vấn đề là khả năng. Khi một quốc gia có khả năng phát triển hạt nhân thì sẽ dễ bị cám dỗ tiến sang con đường muốn sản xuất những chất liệu hạt nhân để chế vũ khí.”
Theo tin AP, ông Henry Sokolski, giám đốc của Trung Tâm Giáo Dục Chính Sách Kiềm Chế Phát Triển Năng Lượng Nguyên Tử (Nonproliferation Policy Education Center), và là cựu nhân viên của Ngũ Giác Ðài kêu gọi tòa Bạch Ốc “từ tốn lại.” Ông nói:
“Thỏa thuận này sẽ làm chúng ta mang tiếng là có tiêu chuẩn kép. Nếu chúng ta định hợp tác với Việt Nam , thì đừng hạ tiêu chuẩn của mình xuống. Ðiều này chỉ tạo ra phiền nhiễu.”
Giáo Sư Carl Thayer, nhà nghiên cứu về Á Châu Thái Bình Dương thì việc đạt được thỏa thuận hạt nhân với Hoa kỳ, mở đường cho việc phát triển hạt nhân dân sự, sẽ giúp Việt Nam đảm bảo được an ninh năng lượng cho mình, và không còn phải cạnh tranh với Trung Quốc hay phụ thuộc vào nguồn năng lượng dầu khí từ Trung Ðông.

Mỹ lấn sân Bắc Kinh

Tuy phần lớn những tranh cãi xoay quanh việc Hoa Kỳ có để cho Việt Nam quyền tự làm giàu uranium hay không, giới phân tích cho là quan tâm chính của Bắc Kinh không phải là việc Việt Nam có sử dụng năng lượng hạt nhân cho mục đích quân sự hay không, mà là việc Hoa Kỳ mang banh vào sân chơi của Trung Quốc.
Nhắc lại lời tuyên bố của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton trong chuyến viếng thăm Hà Nội mới đây là chính phủ Obama sẵn sàng đưa quan hệ Việt-Mỹ “lên cấp độ mới,” tờ China Daily, trích lời ông Li Qinggong, phó tổng thư ký Hội Ðồng Trung Quốc Nghiên Cứu Chính Sách An Ninh Quốc Gia nói rằng: “Chúng ta không thể làm ngơ trước tình hình.”
Ông Fan Jishe, một nhà nghiên cứu thuộc Viện Khoa Học Xã Hội Trung Quốc còn phản ứng mạnh mẽ hơn, lên án rằng: “Mỹ tăng cường hợp tác hạt nhân với Việt Nam là để nhằm đối phó với Trung Quốc.”
Tờ Foreign Policy trích lời ông Ernie Bower, giám đốc của Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Viễn Ðông và Quốc Tế, nói rằng:
“Bắc Kinh đã bước lùi rất nhiều năm khi có những phản ứng thái quá như vậy. Họ càng phản ứng như thế thì càng cho thế giới, nhất là những quốc gia trong vùng Ðông Nam Á thấy rõ là ngoài mặt Trung Quốc tỏ ra là bạn tốt của họ, nhưng thật ra trong bụng đầy mưu toan.”
Trên blog riêng của mình có tên “The Washington Note,” ông Steve Clemons một người thông thạo về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ viết rằng một người bạn lão thành của ông khuyên là “đừng bị lạc vào những chi tiết nhỏ” của những thương thuyết giữa Hoa Kỳ với Việt Nam, với Nhật Bản, hay với Nam Hàn, mà phải nhớ lời tuyên bố “Hoa Kỳ trở lại Á Ðông” của Ngoại Trưởng Hillary Clinton khi đi tham dự những hội nghị Á Châu tại Thái Lan cách đây hơn một năm.
“Hãy nhớ là tất cả những động thái của Hoa Kỳ bây giờ là để tạo thế đứng vững vàng và phát huy ảnh hưởng của Mỹ tại Á Châu Thái Bình Dương, và ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc.”
Hà Giang / Người Việt